Lễ đón dâu của người Sán Dìu

Dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam có nhiều nét độc đáo về các nghi lễ như nghi lễ cúng cơm mới, rửa bừa, cúng thần rừng... đến nay vẫn được bảo tồn nguyên vẹn.
 
Đặc biệt, trong đó, phong tục cưới hỏi của người Sán Dìu không chỉ là sinh hoạt văn hóa tinh thần, mà còn thể hiện tình cảm, đạo đức, lối sống, phép ứng xử giữa người với người, giữa con người với thiên nhiên..Lễ đón dâu là một trong những nghi thức quan trọng trong lễ cưới của người Sán Dìu ở tỉnh Thái Nguyên.
 
Le don dau cua nguoi San Diu hinh anh 1
Nhà trai chuẩn bị lễ vật đến nhà gái dạm ngõ

Lễ cưới (sênh ca chíu) của người Sán Dìu thường diễn ra trong vòng 3 ngày. Khi hai nhà bắt đầu dựng rạp (thường vào buổi chiều) cũng là lúc đoàn nhà trai mang đồ thách cưới sang nhà gái. Đoàn nhà trai gồm ông mối làm trưởng đoàn, một cô phù dâu (tánh cả) và 4 đến 5 thanh niên. Theo phong tục, tất cả đồ lễ đều được dán giấy đỏ, đồng bào cho rằng màu đỏ là màu của hạnh phúc, niềm vui và sự đủ đầy.

Thầy cúng Lâm Văn Quang, bà Lang Thị Tám và bà Trương Thị Sinh, người Sán Dìu ở Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên cho biết:“Ngày cưới phải có ông mối. Tất cả các lễ nghi từ lợn thách cưới, lợn 2 con, rượu 60 lít, tiền mang sang bên nhà gái có cả vòng bạc Thách cưới 50kg lợn, độ 15 triệu. Đấy là phong tục thời xưa, lễ 3 con gà, 1 buồng cau. Cau, trầu. Mỗi 1 con gà thì mang theo 1 đấu gạo nếp, tức là khoảng 1,5kg vào để đón dâu.”

Le don dau cua nguoi San Diu hinh anh 2
Chú rể và cô dâu hẹn lời thề nguyện ước trước sự chứng kiến của hai họ

Lễ đón dâu của người Sán Dìu có nhiều nét đặc biệt, đó là chú rể không có mặt trong đoàn người đi đón. Ngoài ra, khác với nhiều dân tộc, khi đi đón dâu, bao giờ người Sán Dìu cũng chọn thời điểm mặt trời lặn.

Ngoài việc tránh những điềm không may mắn, tránh những rủi ro thì còn là sự mong cầu có được một nàng dâu tốt nết theo quan niệm của người Sán Dìu: “Tục lệ người Sán Dìu là cứ tối mới được đón dâu, độ khoảng 4 giờ chiều đón dâu, cứ phải mặt trời lặn mới được vào nhà. Các cụ dặn như vậy.”

“Theo tâm linh, lúc dâu về chiều tối là dâu chịu khó hơn. Dâu về ban ngày là dâu không chăm chỉ.” 

Cô dâu trước khi ra khỏi nhà sẽ được phủ lên đầu chiếc khăn màu đỏ và chiếc khăn màu xanh, trong đó, khăn đỏ là của nhà gái, khăn xanh là của nhà trai. Đến nhà chồng, chiếc khăn xanh sẽ được phủ lên trên chiếc khăn đỏ. Theo quan niệm của người Sán Dìu, điều này hàm ý là từ nay vợ phải nghe lời chồng, vợ chồng phải đồng thuận.

Không dừng lại ở đó, khoảnh khắc thú vị nhất là khi cô dâu bước vào cửa buồng cưới. Cánh thanh niên nhà gái phải rút thật nhanh chiếc khăn đỏ trên đầu cô dâu. Thầy cúng Lâm Văn Quang cho biết:   “Khi vào cửa buồng, nhà gái phải rút thật nhanh. Nếu không rút nhanh, bị các thanh niên bên nhà trai, các bạn của chú rể đứng hai bên cửa buồng, rút mất trước thì phải hát đối. Nếu không hát được là đêm hôm đó các chàng trai không cho các cô gái phù dâu ngủ ở đấy. Khi đưa dâu đến là tất cả nhà gái ở lại nhà trai ăn ở 1 đêm, rồi đến sáng hôm sau khoảng 9 – 10 giờ tiễn nhà gái về thì còn có 7 – 8 cô phù dâu ở lại với cô dâu thêm 1 đêm nữa để hát với các chàng trai bên nhà trai.”


Khi về nhà chồng, nàng dâu phải mang theo món quà đó là khăn mặt. Nhà chồng có bao nhiêu người thì hôm ấy cô dâu sẽ mang theo bấy nhiêu chiếc khăn mặt. Và trong ngày cuối cùng của đám cưới, khi trời chưa sáng hẳn, cô dâu dậy đun nước pha trà bằng bộ ấm chén mới để mời ông bà, cha mẹ, họ hàng nhà chồng và bưng chậu nước kèm theo chiếc khăn mới để người thân bên chồng rửa mặt. Người được nhận nước rửa mặt sau khi rửa xong, thả vào chậu 1 ít tiền để chúc phúc.

Thầy cúng Lâm Văn Quang giải thích: “Báo hiếu của dân tộc Sán Dìu thì hôm cuối cùng, nàng dâu phải có 1 chậu nước và mỗi người một chiếc khăn mặt. Cô dâu đi lấy nước cho ông bà bên nhà chồng, bố mẹ chồng, họ mạc bên nhà chồng với ý nghĩa là họ nhận dâu, nếu chưa nhận lễ đấy thì chưa phải con dâu.”

Cũng trong buổi sáng hôm đó, nhà trai đồng thời tổ chức cho cô dâu lễ lại mặt tại nhà gái. Đoàn đi lễ lại mặt gồm mẹ chồng, cô, dì, chị gái chồng cùng cô dâu mang gà trống, chân giò, bánh chưng đến nhà gái. Nhà gái chuẩn bị một lễ cúng gia tiên và mời họ hàng thân thiết tới ăn cơm. Cô dâu được bố mẹ chồng dặn dò thêm một số tục lệ khi mới về nhà chồng đồng thời nhà gái giao trách nhiệm cho nhà trai dạy bảo thêm con gái mình.

Về cơ bản, lễ đón dâu của dân tộc Sán Dìu tại một số địa phương tương tự nhau, tuy nhiên cũng sẽ có một số điểm khác biệt. Nhưng tựu chung lại, mỗi nghi lễ đều ẩn chứa những ý nghĩa đạo lý, nhân văn. Hôn nhân của người Sán Dìu chính là nơi hội tụ các giá trị văn hoá tộc người. Qua đó, ta thấy được những giá trị văn hoá vật chất, văn hoá xã hội và văn hoá tinh thần mang đặc trưng sắc thái văn hoá cộng đồng

Theo vovworld.vn

 

Tin liên quan

Phong tục cưới hỏi của Người Mông

Người Mông ở huyện Mù Cang Chải (Yên Bái) thường tổ chức cưới hỏi vào dịp đầu năm. Khi chàng trai người Mông thích một cô gái, chàng sẽ về thưa chuyện với bố mẹ. Nhà trai tìm ông mối là người có uy tín trong dòng họ để sang nhà gái làm lễ hỏi.


Đặc sắc nghi lễ cưới hỏi của người Mông xanh

Là dân tộc ít người ở Việt Nam, người Mông xanh cư trú chủ yếu ở 2 thôn Nậm Tu Thượng và Nậm Tu Hạ của xã Nậm Xé (huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai). Người Mông xanh hiện vẫn còn lưu giữ được phong tục tập quán, giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình, đặc biệt là nghi lễ cưới hỏi đặc sắc.


Những nét đặc sắc trong đám cưới của người Dao Thanh Y

Xã Quảng Đức, huyện Hải Hà (Quảng Ninh) có hơn 3.700 nhân khẩu với 5 dân tộc (Dao, Kinh, Hoa, Tày, Nùng) sinh sống, người Dao Thanh Y chiếm trên 94% dân số toàn xã. Những giá trị văn hóa phi vật thể của người Dao Thanh Y, trong đó có đám cưới truyền thống được người dân nơi đây bảo tồn từ đời này sang đời khác.


Đám cưới của người Sán Chỉ ở Cao Bằng

Người Sán Chỉ tập trung chủ yếu ở Cao Bằng, phân bố chủ yếu tại 2 huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm. Trong đó, ở Bảo Lạc người Sán Chỉ tập trung đông nhất tại các xã Cốc Pàng, Thượng Hà, Kim Cúc, Hưng Đạo, Sơn Lộ… Người Sán Chỉ có nền văn hóa truyền thống giàu bản sắc, trong đó, những tục lệ cưới xin cũng như một số dân tộc thiểu số khác rất phức tạp và qua nhiều nấc bước, đến nay vẫn được đồng bào bảo tồn và phát huy.


Độc đáo tục cưới hỏi của người Pa Dí ở Lào Cai

Người Pa Dí còn có tên gọi Tày đen, là một nhóm địa phương của dân tộc Tày. Hiện nay, người Pa Dí được xếp vào nhóm dân tộc Tày thuộc hệ ngôn ngữ Thái - Ka đai. Ở Lào Cai, người Pa Dí cư trú tập trung chủ yếu ở huyện Mường Khương, họ còn lưu giữ được nhiều tập quán xã hội, trong đó phải kể đến tục lệ cưới hỏi. Đám cưới của người Pa Dí trải qua nhiều bước, trong đó có lễ ăn hỏi, lễ cưới và lễ lại mặt.


Tái hiện Lễ cưới của người Nùng

Ngày 1/9, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào dân tộc Nùng đến từ tỉnh Lạng Sơn đã tái hiện Lễ cưới của dân tộc mình, thể hiện nét văn hóa truyền thống độc đáo qua các nghi thức, nghi lễ.


Phong tục cưới hỏi của đồng bào Xa Phó Lào Cai

Đồng bào Xa Phó ở Lào Cai có tập quán cưới hỏi khá độc đáo, khác lạ từ lễ vật thách cưới cho đến các nghi thức. Thời gian tổ chức cưới hỏi thường vào tháng một, tháng hai. Tiêu chuẩn chọn vợ, chọn chồng của người Xa Phó khá khắt khe. Những cô gái có tính nết hiền lành, biết thêu thùa, may vá và những chàng trai giỏi cày bừa, khỏe mạnh sẽ được nhiều người để ý, lựa chọn.


Lễ cưới của dân tộc Bố Y

Bố Y là một trong những dân tộc ít người của tỉnh Lào Cai. Với dân tộc Bố Y, phong tục cưới hỏi với những nghi lễ mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc luôn được coi trọng và giữ gìn đến ngày nay.


Độc đáo Lễ cưới của dân tộc Bố Y

Trong khuôn khổ ngày hội “Sắc xuân trên mọi miền Tổ Quốc”, tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào dân tộc Bố Y ở thôn Lao Hầu, xã Thanh Bình, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai đã tổ chức tái hiện lại nghi lễ cưới độc đáo của dân tộc mình.


Một vài tục lệ hôn nhân của người Cadoong ở Trà Bùi, Quảng Nam

Cách đây chỉ vài chục năm về trước, một trong những ước muốn lớn nhất của người Cadoong (Ca dong) ở đất Trà Bui (Quảng Nam) là sớm thiết lập được một gia đình. Thời ấy, trai gái của mỗi làng (Plơi) như bị giam hãm trong không gian chật hẹp của vài chục căn nhà Plơi mình, toàn những người thân thuộc, không được yêu nhau, lấy nhau.


Mo Mường - di sản sử thi dân gian

Mo Mường là một di sản văn hóa đặc sắc, phản ánh nhân sinh quan, vũ trụ quan độc đáo của dân tộc Mường, hàm chứa nhiều ý nghĩa giáo dục đối với cộng đồng. Thế nhưng di sản văn hóa phi vật thể này đang đứng trước nguy cơ mai một do sự tác động của văn hóa thời kỳ công nghiệp hóa và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ.


Đám cưới người Giáy ở Tả Van

Những phong tục cổ trong đám cưới được người Giáy ở xã Tả Van (huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai) gìn giữ cho tới ngày nay. Người Giáy xem đám cưới là ngày hội vui và họ tin rằng đám cưới càng tổ chức lớn, càng đông vui thì hạnh phúc của đôi trai gái càng được bền lâu.


Đám cưới người Giáy

Mùa cưới của người Giáy thường tổ chức từ tháng 10 năm trước đến tháng 2 Âm lịch năm sau. Nam, nữ đến tuổi trưởng thành được tự do tìm hiểu bạn đời, khi duyên tình đã thắm nồng, chàng trai về báo cáo với gia đình để chuẩn bị tiến hành các nghi lễ.


Lễ cưới truyền thống của người Hà Nhì

Nghi lễ trong đám cưới của người Hà Nhì ở huyện Mường Tè (Lai Châu) được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Trai gái tự do tìm hiểu, khi hai bên cùng ưng thuận tiến tới hôn nhân thì gia đình tổ chức lễ cưới.


Một số nét văn hóa của người Dao

Dân tộc Dao là một trong 54 dân tộc anh em đang sống trên dải đất Việt Nam, phân bố chủ yếu ở các tỉnh vùng cao biên giới phía Bắc Việt Nam như Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn. Dân tộc Dao có nhiều nhóm địa phương, như: Dao Quần trắng, Dao quần chẹt, Dao Tiền, Dao Thanh Y, Dao Lô Gang, Dao Đỏ...và có nhiều tên gọi khác: Mán, Động, Trại, Đại Bản, Tiểu Bản v.v...


Đặc sắc phong tục đám cưới của người Mông trắng

Người dân tộc Mông ở Cao Bằng chiếm hơn 10% dân số toàn tỉnh với 3 nhóm: Mông trắng, Mông hoa, Mông đen vẫn giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc khá nguyên vẹn. Trong đó có phong tục đám cưới của nhóm Mông trắng tại các huyện: Thông Nông, Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình..., mang nét văn hóa đặc trưng.


Đám cưới của người Cao Lan ở Đèo Gia

Với người Cao Lan ở xã Đèo Gia, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, việc cưới hỏi luôn được xem là rất quan trọng. Các bước để tiến hành nghi lễ cưới xin truyền thống của người Cao Lan chứa đựng nhiều phong tục độc đáo.


Người Cống ở Pa Thơm

Dân tộc Cống còn có 3 tên gọi khác là Mâng Nhé, Xá Xeng và Xắm Khống; tuy nhiên rải rác ở một vài địa phương, tên gọi của người Cống còn gắn liền với các địa danh làng bản hoặc đặc điểm sản vật của địa phương.


Đặc sắc trong hôn lễ của người Tày

Người Tày ở Cao Bằng rất coi trọng việc “dựng vợ, gả chồng” cho con cái đã trưởng thành để nối dõi tông đường, phát triển dòng tộc. Hôn nhân của người Tày không đơn thuần là việc kết duyên đôi lứa mà còn là truyền thống đạo lý của dân tộc, giáo dục tình nghĩa vợ chồng trong các mối quan hệ gia đình, dòng tộc, góp phần gắn kết cộng đồng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.



Đề xuất