Nét văn hóa đặc sắc trong lễ hội đầu Xuân của đồng bào dân tộc Mông

Ngày 18/2 (tức mùng 9 tháng Giêng năm Giáp Thìn), UBND huyện Trạm Tấu (Yên Bái) tổ chức Lễ hội Gầu Tào năm 2024. Đây là sự kiện văn hóa quan trọng nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Mông, đồng thời thúc đẩy du lịch địa phương.

vna_potal_van_hoa_soi_duong_dac_sac_le_hoi_gau_tao_cua_nguoi_mong_o_yen_bai_7230674.jpg
Đông đảo người dân cùng du khách nô nức đổ về sân vận động huyện để tham dự Lễ hội Gầu Tào. Ảnh: Tuấn Anh - TTXVN

Lễ hội Gầu Tào gồm phần lễ và phần hội. Trong Lễ hội, cây nêu là biểu tượng chính, là "phần hồn" của sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống và là nghi lễ đặc sắc được chú ý nhất trong lễ hội. Hoạt động đầu tiên trong phần lễ là dựng cây nêu, biểu tượng cho sự trường tồn và mạnh mẽ của người Mông trên mảnh đất cao cằn cỗi. Khi dựng xong cây nêu, nghi lễ cúng do nghệ nhân Giàng A Su thực hiện với nội dung tạ ơn thần núi, thần đất, thần trời, thần suối đã cho đồng bào các dân tộc huyện Trạm Tấu một năm có nhiều điều tốt lành, mùa màng bội thu và cầu xin thần linh tiếp tục phù hộ cho một năm mới nhiều may mắn... Sau lễ cúng, hai thanh niên người Mông cắt tiết gà, hóa giấy cúng để thần linh nhận được lễ vật, phù hộ cho nhân dân các dân tộc huyện Trạm Tấu...

vna_potal_van_hoa_soi_duong_dac_sac_le_hoi_gau_tao_cua_nguoi_mong_o_yen_bai_7230675.jpg
Nghệ nhân Giàng A Su tiến hành nghi thức thắp hương trước cây nêu và khấn xin thần linh cho phép mở hội. Ảnh: Tuấn Anh - TTXVN

Sau phần lễ là phần hội diễn ra sôi động với các tiết mục múa hát mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Mông và các môn thể theo truyền thống như: Kéo co, ném pao, đánh quay, thi giã bánh dày… góp phần tạo sự đoàn kết, gắn bó trong cộng đồng dân cư; là dịp để mọi người gặp gỡ, giao lưu, vui chơi, hát các điệu hát giao duyên và cùng nhau múa khèn, uống chén rượu đầu xuân năm mới.

vna_potal_van_hoa_soi_duong_dac_sac_le_hoi_gau_tao_cua_nguoi_mong_o_yen_bai_7230672.jpeg
Màn biểu diễn khèn Mông tại lễ hội. Ảnh: Tuấn Anh - TTXVN
vna_potal_van_hoa_soi_duong_dac_sac_le_hoi_gau_tao_cua_nguoi_mong_o_yen_bai_7230673.jpg
Hội thi làm bánh dày thu hút đông đảo đại biểu, nhân dân và du khách đón xem. Ảnh: Tuấn Anh - TTXVN

Kết thúc lễ hội là nghi lễ tạ và hạ cây nêu trên cánh đồng, khe suối. Cây nêu được hạ xuống hướng về phía mặt trời lặn, đi ra sông suối, biển cả với quan niệm ngăn chặn những điều không may mắn, không tốt, giúp đồng bào đón năm mới mưa thuận, gió hòa, sản xuất phát triển, có nhiều sức khỏe, cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bình an.

Phát biểu tại Lễ hội, Chủ tịch UBND huyện Trạm Tấu Vũ Lê Chung Anh nhấn mạnh: Trạm Tấu là huyện vùng cao của tỉnh Yên Bái, với 12 dân tộc anh em cùng sinh sống tại 11 xã và 1 thị trấn; diện tích trên 74 ngàn ha; dân số trên 38 nghìn người. Huyện có nhiều thế mạnh về điều kiện tự nhiên, khí hậu với đặc điểm riêng biệt của khí hậu vùng Tây Bắc quanh năm mát mẻ, cảnh quan thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ với đỉnh Tà Chì Nhù cao 2.979m, Tà Xùa 2.865m so với mực nước biển, có rừng rêu, hoa đỗ quyên, thác Háng Đề Chơ, đồi thông Eo Gió, Bản Cu Vai xinh đẹp… là điểm đến thu hút du khách và là nơi hội tụ nhiều hoạt động văn hóa, lễ hội truyền thống của đồng bào các dân tộc vùng cao. Đặc biệt, Lễ hội Gầu Tào của đồng bào dân tộc Mông, huyện Trạm Tấu là một trong những lễ hội tiêu biểu thể hiện truyền thống văn hóa của dân tộc có từ rất lâu đời, được đồng bào dân tộc Mông duy trì và gìn giữ. Lễ hội thường được diễn ra vào dịp hết năm cũ, sang đầu năm mới với quan niệm của sự sinh sôi, nảy nở.

Lễ hội Gầu Tào của đồng bào dân tộc Mông huyện Trạm Tấu là nét văn hóa độc đáo được người dân nơi đây đón chờ vào dịp đầu Xuân. “Gầu Tào” theo tiếng Mông có nghĩa là “chơi ngoài trời” hay “hội chơi đồi". Theo quan niệm, đây là dịp để đồng bào cầu cảm tạ thần linh, xin trời đất ban cho con cái, sức khỏe, may mắn để làm ăn và cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt...

Việc tổ chức Lễ hội Gầu Tào hằng năm với mong muốn đưa lễ hội trở thành sản phẩm du lịch đặc sắc, góp phần duy trì và phát triển giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Mông huyện Trạm Tấu, tiến tới đề nghị Bộ Văn hóa - Thể Thao và Du lịch công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia; từng bước biến di sản thành tài sản để phát triển kinh tế - xã hội của đồng bào các dân tộc trên địa bàn huyện. Thông qua việc tổ chức Lễ hội, người dân có thêm nhận thức đúng đắn về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc nói chung và đồng bào dân tộc Mông nói riêng. Đây cũng là dịp nhằm tăng cường tình đoàn kết, tình yêu quê hương, đất nước và lòng tự hào dân tộc; các cấp chính quyền cơ sở, dòng họ, nhân dân bày tỏ tình cảm, giao lưu, học hỏi và cam kết thực hiện những việc tốt, cầu một năm mới an khang, thịnh vượng.

Tuấn Anh

(TTXVN)
Dân tộc Mông Dân tộc Mông

Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo.

Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.

Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo.

Dân số: 1.068.189 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao.

Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu...

Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.

Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.

Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép. Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.

Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ.

Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.

Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.

Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.

Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.

Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.

Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Tuổi thơ hồn nhiên của trẻ em dân tộc Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu (Sơn La). Ảnh Lưu Trọng Đạt.jpg
Tuổi thơ hồn nhiên của trẻ em dân tộc Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu (Sơn La). Ảnh Lưu Trọng Đạt

: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.

Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.

Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.

Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.

Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.

Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.

Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.

Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ...

Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.

Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.

Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.

Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.

Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.

Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).

Các vận động viên dân tộc Mông thi đấu môn bắn nỏ tại Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc huyện Than Uyên (Lai Châu). Ảnh Quý Trung.jpg
Các vận động viên dân tộc Mông thi đấu môn bắn nỏ tại Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc huyện Than Uyên (Lai Châu). Ảnh Quý Trung

Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm