Ở Sơn La, đồng bào dân tộc Mông thường đón Tết cổ truyền (Nào Pê Chầu) sớm hơn Tết Nguyên đán 1 tháng, bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên để giữ gìn nét văn hóa truyền thống, giáo dục cho con cháu luôn hướng về cội nguồn.
Những ngày này, không khí vui Xuân đón Tết nhộn nhịp khắp bản làng. Các gia đình bắt đầu mổ lợn, gà để làm lễ tạ ơn tổ tiên, trời đất phù hộ đồng bào có sức khỏe tốt, mùa màng bội thu và mọi điều may mắn trong năm qua.
Tùy điều kiện kinh tế, công việc của mỗi gia đình, Tết thường diễn ra từ 10-15 ngày với phần lễ và hội. Phần lễ diễn ra từ chiều 30 Tết đến hết chiều mùng 3 Tết, nghi lễ chủ yếu tại các gia đình, trưởng dòng họ để cầu mong sức khỏe dồi dào, may mắn, mưa thuận, gió hòa, cây cối xanh tốt, mùa màng bội thu. Ngày 29 Tết, các gia đình bắt đầu ngâm gạo nếp để sáng sớm hôm sau sẽ đồ chín giã bánh giày. Đây là loại bánh không thể thiếu trong mâm cúng vào dịp Lễ, Tết của người Mông.
Những ngày Tết, các thành viên quây quần cùng nhau mổ lợn, gà, làm các món ăn để mời họ hàng, bạn bè, khách đến chơi. Trong 3 ngày Tết, người Mông không tiêu tiền, không lao động vì cho rằng nếu không nghỉ ngơi thì năm đó sẽ vất vả. Ngoài ra, người Mông quan niệm “vạn vật hữu linh” nên họ dùng giấy dán vào các vật dụng, công cụ lao động với ý nghĩa cuối năm chúng cũng cần được nghỉ ngơi như con người. Phần hội diễn ra hằng ngày cho đến khi hết Tết.
Đến xã Hua Nhàn, huyện Bắc Yên những ngày Tết, du khách có thể tìm hiểu các loại hình văn hóa đặc sắc, phong tục tập quán của đồng bào Mông, hòa mình trong trò chơi dân gian, nghệ thuật trình diễn, tạo nên bức tranh đa sắc màu về văn hóa vùng cao.
Theo ông Hạng A Cheo, Bí thư Đảng ủy xã Hua Nhàn, huyện Bắc Yên, từ những nép đẹp trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, xã duy trì việc đón Tết cổ truyền của đồng bào Mông. Hiện nay, mặc dù có những đổi mới về cách thức tổ chức nhưng vẫn giữ gìn, bảo tồn, phát huy giá trị cốt lõi, bản sắc văn hóa của dân tộc. Bên cạnh đó, việc tổ chức đón Tết cổ truyền của dân tộc Mông đang trở thành điểm nhấn trong phát triển du lịch tại xã.
Người Mông ở bản Tà Số, xã Chiềng Hắc, huyện Mộc Châu cũng đang rộn ràng đón Tết với niềm hân hoan và hy vọng vào năm mới cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Ngày Tết cũng là dịp để người Mông vui chơi sau một năm lao động vất vả. Những ngày này, mọi người thường tập trung chơi các trò chơi dân gian như, đánh tu lu, ném pao…Các chàng trai, cô gái còn tham gia ca hát, múa khèn… Sự độc đáo trong văn hóa của đồng bào Mông thu hút đông đảo du khách đến tham quan, du lịch, trải nghiệm.
Trưởng bản Tà Số 2, xã Chiềng Hắc, huyện Mộc Châu Mùa A Di cho hay, Tết là dịp nghỉ ngơi và vui hội với các trò chơi dân gian. Từ năm 2020, du lịch được đầu tư, phát triển, bản tích cực tuyên truyền để người dân duy trì nghề truyền thống như rèn, dệt vải...để thu hút du khách tham quan, trải nghiệm.
Bản Tà Số, xã Chiềng Hắc được huyện Mộc Châu chọn làm điểm phát triển du lịch cộng đồng dân tộc Mông. Chính vì vậy, đồng bào Mông ở Tà Số đón Tết trong một tâm thế mới, quyết tâm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc để làm du lịch cộng đồng, góp phần tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống.
Chị Sồng Y Hoa, bản Tà Số, xã Chiềng Hắc cho biết, gia đình chị làm homestay từ năm 2020 nhưng vẫn quyết tâm giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, nét văn hóa truyền thống để phát triển du lịch, quảng bá tới du khách. Gia đình cũng sử dụng nhiều vật liệu tự nhiên sẵn có trên bản để bày trí phòng trong homestay. Dịp Tết này, đến với bản Tà Số, du khách được trải nghiệm giã bánh giày, chơi các trò chơi dân gian…
Anh Nguyễn Trung Thắng, du khách tới từ tỉnh Hải Dương chia sẻ, trước đây, anh biết đến Mộc Châu và nét văn hóa truyền thống của các dân tộc Tây Bắc trên trang mạng xã hội. Đợt này, anh lên du lịch ở Tà Số được trải nghiệm không khí, ẩm thực và nét văn hóa độc đáo của đồng bào. Anh hy vọng, người dân nơi đây luôn giữ được truyền thống văn hóa để du khách trải nghiệm.
Đến với đồng bào Mông ở Sơn La dịp Tết, ngoài tìm hiểu phong tục, nghi lễ độc đáo, du khách được hòa mình vào không khí trong lành của núi rừng Tây Bắc, ngắm hoa đào, hoa mơ, hoa mận thi nhau đua nở. Đồng bào Mông nơi đây đang nỗ lực tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, giữ gìn nét đẹp truyền thống văn hóa, xây dựng bản làng ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Quang Quyết
Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo.
Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.
Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo.
Dân số: 1.068.189 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao.
Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu...
Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.
Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.
Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép. Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.
Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ.
Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.
Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.
Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.
Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.
Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.
Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.
Ở: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.
Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.
Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.
Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.
Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.
Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.
Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.
Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ...
Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.
Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.
Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.
Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.
Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.
Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).
Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.
Theo cema.gov.vn