Nếu như người đàn ông đóng vai trụ cột trong đời sống của người Dao Thanh Y thì phụ nữ ở dân tộc này lại nắm giữ những giá trị không thể thay thế, là người nuôi dưỡng phát huy nguồn văn hóa truyền thống trong mỗi gia đình và rộng hơn là bản sắc của cả một dân tộc. Một trong những nét văn hóa của phụ nữ Dao Thanh Y ở thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh còn giữ lại được là nghệ thuật thêu, dệt thổ cẩm, thể hiện sự khéo léo, tài tình của phụ nữ.
Người Dao Thanh Y quan niệm, những cô gái giỏi giang khéo tay phải được thể hiện qua chính các bộ trang phục truyền thống nhiều sắc màu, kỳ công; hoa văn hài hòa… Từ các chất liệu thổ cẩm, rồi tơ tằm hoặc những sợi len cùng với dụng cụ thô sơ như ống thanh tre, người phụ nữ Dao Thanh Y đã thêu, dệt lên những bộ trang phục tinh tế, chắc chắn, đẹp rực rỡ. Trang phục người Dao Thanh Y còn là của hồi môn dành cho con gái…
Trang phục của bà con Dao Thanh Y ở Quảng Ninh cũng rất đa dạng. Trong lễ cưới hỏi, cô dâu, chú rể diện lễ phục thổ cẩm Dao Thanh Y rực rỡ, điểm xuyết bởi dây thắt lưng, mũ đội đầu và các vòng bạc trang trí. Trang phục lễ tết thì sặc sỡ, nhiều màu sắc. Dịp làm lễ hoặc ma chay nổi bật là trang phục của thầy mo có thêm áo rồng trang nghiêm, uy nghi…
Màu sắc của bộ trang phục cũng rất phong phú, như vàng, đen, trắng, xanh, đỏ kết hợp được trên nền vải đen, hội tụ đủ ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Mỗi màu sắc ấy lại tượng trưng cho tư tưởng tâm linh của đồng bào dân tộc Dao Thanh Y, rằng nếu mặc trang phục sắc màu sặc sỡ sẽ tránh được thú dữ, bởi thú có dữ đến đâu cũng vẫn yêu cái đẹp. Điều này cho thấy một nếp nghĩ, tâm hồn đẹp của những con người quanh năm cuộc đời gắn bó với núi rừng.
Tại thôn Khe Sú 1 xã Thượng Yên Công, TP Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, hàng ngày người ta vẫn nhìn thấy bà Lý Thị Mai ngồi bên những sắc màu xanh đỏ để dệt và thêu những bộ trang phục truyền thống. Người phụ nữ đã ngoài 70 tuổi không chỉ giữ được đam mê cho bản thân mà rất tâm huyết trọng việc dạy nghề cho những ai có nhu cầu đến học. Bà cũng là người năng nổ trong tổ thêu thổ cẩm dao Thanh Y và tổ dệt dây lung người Dao trên địa bàn xã. Cứ vậy, từ bà truyền cho mẹ, mẹ lại dạy cho con, không có một sách vở nào ghi lại quy trình cụ thể, nhưng người Dao vẫn có những cách thức riêng của mình để lưu giữ văn hóa truyền thống dân tộc.
Bà Mai là người thêu thắt lưng, khăn đội đầu của người Dao rất giỏi. Bà chia sẻ: "Tôi biết dệt từ năm 16 tuổi đến giờ. Tôi đã truyền dạy được cho hơn 30 người biết dệt thắt lưng trang phục dân tộc tôi. Dạy được cho các cháu biết đến dệt truyền thống mình vui, phấn khởi lắm vì đã giữ được bản sắc dân tộc ngày xưa. Tôi mong con cháu của tôi cũng biết làm, lưu giữ để cái nghề của mình nó không thể quên đi".
Kỹ năng thêu dệt phối màu sắc được người phụ nữ Dao Thanh Y rèn luyện từ nhỏ, vì vậy họ thành thục và điêu luyện với từng đường kim mũi chỉ, các họa tiết trên trang phục chủ yếu thêu vo bằng tay mà không cần kẻ vẽ, tạo hình từ trước.
Những đôi tay khéo léo của những người bà, người mẹ Dao Thanh Y vẫn miệt mài dệt từng chiếc dây đai, thêu từng mũi kim sợi chỉ cho ra những bộ trang phục rực rỡ sắc màu, vừa để mặc trong những dịp lễ hội, vừa làm “của hồi môn cho con gái” và quan trọng hơn cả, họ truyền dạy cho thế hệ đi sau gìn giữ gốc gác từ những điều bình dị nhất.
Bà Hoàng Thị Thân thôn Khe Sú 1 cho biết: Từ nhiều năm nay ở đây chúng tôi đã hình thành tổ thêu thổ cẩm Dao Thanh Y và tổ dệt dây lưng người Dao. Tổ thêu, dệt ngoài việc tạo ra các sản phẩm truyền thống, chúng tôi còn có trách nhiệm truyền dạy cho lớp trẻ và những ai muốn đến học thêu, dệt thổ cẩm của người Dao. Chúng tôi còn vận động bà con mặc quần áo truyền thống vào các dịp lễ tết, đám cưới, mùa lễ hội và bà con đã hưởng ứng làm theo rất tích cực. Gần như 100% phụ nữ lớn tuổi trong xã đều biết thêu dệt quần áo dân tộc mình.
Hương Hiền
Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).
Tên gọi khác: Mán.
Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).
Dân số: 751.067 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.
Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.
Hoạt động sản xuất: Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.
Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.
Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...
Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.
Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.
Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay.
Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.
Mặc: Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.
Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục theo rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.
Ở: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.
Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.
Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.
Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.
Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.
Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.
Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.
Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.
Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được.
Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa.
Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.
Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.
Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo.
Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.
Theo cema.gov.vn