Vào trung tuần tháng Tư hằng năm, đồng bào dân tộc Lào sinh sống tại bản Na Sang, xã Núa Ngam, huyện Điện Biên (tỉnh Điện Biên) lại tưng bừng đón Tết cổ truyền Bun Huột Nặm – Lễ hội té nước đặc sắc, mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống.

Tết Bun Huột Nặm không chỉ là dịp để cộng đồng người Lào cầu chúc một năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, mà còn là dịp gắn kết cộng đồng, gìn giữ và phát huy nét đẹp văn hóa dân tộc tỉnh Điện Biên.
Bun Huột Nặm - Tết té nước là lễ hội truyền thống của người Lào tại tỉnh Điện Biên nói chung và bản Na Sang 1, xã Núa Ngam, huyện Điện Biên nói riêng. Lễ hội được tổ chức với mong ước cầu cho mưa thuận gió hòa để mùa màng bội thu, muôn vật sinh sôi, phát triển; tẩy rửa những điều không may mắn của năm cũ, bước sang một năm mới gặp nhiều may mắn cho gia đình và cộng đồng.

Phần lễ chính bắt đầu với lễ cúng thần linh do nghệ nhân và các bậc cao niên trong bản chủ trì. Đây là nghi lễ tâm linh đặc trưng của người Lào, gửi gắm lời cảm tạ đến tổ tiên, trời đất, cầu mong một năm mới bình an. Tiếp đó là nghi thức buộc chỉ cổ tay. Nơi mỗi sợi chỉ tượng trưng cho lời chúc tốt lành, thể hiện sự gắn kết, đoàn kết và yêu thương giữa các thành viên trong cộng đồng.

Nghi thức xin nước biểu tượng cho lòng thành kính cầu mưa thuận gió hòa và sự đồng lòng, đoàn kết của cộng đồng ở Na Sang. Bên cạnh đó, phần lễ còn có nghi thức cúng thần sông, thần suối để bắt đầu cho nghi lễ té nước cầu may được diễn ra sôi nổi, tưng bừng với sự hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo nhân dân, du khách tham gia lễ hội.

Ông Lò Văn Kẹo, dân tộc Lào ở bản Na Sang 1 (xã Núa Ngam) cho biết, theo quan niệm của người Lào, té nước càng nhiều thì càng mang lại nhiều may mắn, xua tan điều xui xẻo của năm cũ và đón năm mới bình an, hạnh phúc. Tết té nước thể hiện tập tục, tín ngưỡng, sự thành kính, biết ơn với người khai phá thành lập bản, thần linh và tổ tiên.

Lễ hội cũng là dịp các gia đình quây quần gặp mặt nhau sau thời gian lao động vất vả, tăng cường khối đoàn kết, giúp đỡ nhau giữa các thành viên trong cộng đồng dân tộc. Bà con dân bản, du khách cùng nhau giao lưu, thể hiện qua những trò chơi dân gian, những điệu dân vũ truyền thống và té nước cầu may.

Lần đầu tiên được trải nghiệm Tết té nước của người Lào, chị Nguyễn Lan Anh, đến từ xã Thanh Hưng (huyện Điện Biên) cảm thấy rất ấn tượng với không khí lễ hội ở đây. Tất cả mọi người đều hào hứng, thân thiện và cùng nhau hòa mình với những điệu múa lăm-vông, những trò chơi dân gian truyền thống và đặc biệt là màn té nước đặc sắc. Đây là một lễ hội rất độc đáo, mang đậm bản sắc và lan tỏa tinh thần đoàn kết, yêu thương.

Năm 2025, Tết té nước Bun Huột Nặm ở Na Sang diễn ra trong 2 ngày (12 - 13/4). Ngoài phần lễ, Tết té nước còn có các hoạt động sôi nổi, đặc sắc như: Các trò chơi dân gian truyền thống; trưng bày, quảng bá các sản phẩm văn hóa du lịch, sản phẩm thủ công mỹ nghệ, ẩm thực dân tộc, các sản phẩm nông nghiệp, OCOP của địa phương; khám phá không gian trưng bày các vật dụng gắn với đời sống văn hóa, sinh hoạt cộng đồng của dân tộc Lào. Bên cạnh đó là chương trình giao lưu văn nghệ với các tiết mục đặc sắc, mang đậm nét văn hóa các dân tộc Lào với sự tham gia của các đội văn nghệ quần chúng đến từ các thôn, bản trên địa bàn xã Núa Ngam, các xã thuộc huyện Điện Biên có dân tộc Lào cư trú.

Phó Chủ tịch UBND huyện Điện Biên Nông Quang Thắng cho biết, Tết té nước Bun Huột Nặm là dịp để tôn vinh, gìn giữ và lan tỏa những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đến nay, Tết té nước đã vượt khỏi khuôn khổ của một lễ hội dân tộc, trở thành điểm đến văn hóa du lịch hấp dẫn tại Điện Biên. Sự kiện không chỉ thu hút người dân địa phương mà còn đón đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh, góp phần quảng bá hình ảnh con người và vùng đất Điện Biên đậm đà bản sắc văn hóa các dân tộc.

Trong thời gian tới, huyện sẽ tiếp tục phối hợp với các cấp, các ngành và người dân để duy trì, nâng cao chất lượng tổ chức lễ hội, gắn kết với phát triển du lịch cộng đồng, nhằm vừa bảo tồn di sản vừa tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội bền vững cho địa phương.
Dân tộc Lào là 1 trong 19 cộng đồng dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh Điện Biên có nhiều nét văn hóa đặc sắc, trong đó có Tết té nước. Năm 2017, Lễ hội Bun Huột Nặm - Tết té nước của dân tộc Lào tại xã Núa Ngam, huyện Ðiện Biên đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia./.
Xuân Tư
Tên tự gọi: Thay, Thay Duồn, Thay Nhuồn.
Tên gọi khác: Phu Thay, Phu Lào.
Nhóm địa phương: Lào Bốc (Lào Cạn) và Lào Nọi (Lào Nhỏ).
Dân số: 14.928 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Lịch sử: Người Lào có nguồn gốc di cư từ Lào sang.
Hoạt động sản xuất: Người Lào làm ruộng nước với kỹ thuật dẫn thuỷ nhập điền hợp lý. Ngoài ra họ còn làm nương, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tiểu thủ công nghiệp gia đình của dân tộc đặc biệt phát triển. Họ làm gốm bằng bàn xoay với các sản phẩm như chum vại, vò, ché, nồi với chất lượng tốt. Nghề dệt thổ cẩm tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao, thể hiện thẩm mỹ tinh tế. Nghề rèn, nghề chạm bạc... cũng góp phần thu nhập đáng kể cho nhiều gia đình. Hái lượm còn có vai trò nhất định đối với đời sống kinh tế của người Lào.
Ăn: Người Lào ăn nếp là chính. Về thực phẩm họ ưa ăn các món chế biến từ cá; đặc biệt có món Pàđẹc (cá ướp) rất nổi tiếng.
Mặc: Phụ nữ Lào mặc váy thắt ngang ngực, buông ngang tầm bắp chân. Gấu váy thêu hoa văn màu tươi sáng rực rỡ. áo nữ ngắn, để hở phần ngực trên. Chiếc trâm bạc cài tóc hay khăn piêu đội đầu của phụ nữ Lào cũng được chạm khắc hoặc thêu thùa khéo léo. Nam phục Lào có nhiều nét tương đồng với người Thái.
Ở: Người Lào cư trú xen kẽ với người Thái, người Lự, người Khơ Mú ở các huyện Ðiện Biên, Phong Thổ (Lai Châu) và Sông Mã (Sơn La). Họ ở nhà sàn, lòng rộng, thoáng đãng, cột kèo được chạm khắc tinh vi. Mái nhà thường kéo dài tạo nên hiên để đặt khung cửi và các công cụ làm vải.
Phương tiện vận chuyển: Người Lào quen gùi, gánh đôi dậu, đặc biệt giỏi đi thuyền trên sông, ở một số nơi họ còn sử dụng ngựa thồ.
Quan hệ xã hội: Trước kia xã hội người Lào tuy phụ thuộc hệ thống tổ chức hành chính của phong kiến Thái nhưng được tự quản ở cấp bản. Mỗi bản có một người đứng đầu gọi là chẩu bản đại diện cho lợi ích cộng đồng. Thiết chế tự quản chi phối nhiều tới hoạt động kinh tế, đời sống tâm linh và đạo đức truyền thống.
Cũng như người Thái, người Lào quan niệm mỗi người có ba quan hệ họ hàng chính: ải Noọng - Lung Ta - Dinh Xao. Các dòng họ đều có tục kiêng cấm liên quan đến tô tem giáo.
Cưới xin: Theo nguyên tắc hôn nhân thuận chiều. Con trai phía họ Dinh Xao được phép và khuyến khích lấy con gái phía họ Lung Ta, nhưng nghiêm cấm lấy ngược lại. Không có tục hôn nhân anh em chồng hoặc hôn nhân chị em vợ. Gia đình của người Lào dù lớn hay nhỏ mang tính phụ quyền rõ rệt mặc dầu người phụ nữ vẫn được đề cao. Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên nhà chồng. Gia đình của họ thường bền vững, ít có trường hợp đa thê, ngoại tình hay ly dị. Quan hệ trong mỗi nhà thường hoà hiếu, con cái được chăm sóc như nhau không phân biệt trai gái.
Sinh đẻ: Phụ nữ mang thai và sinh đẻ được chăm sóc và quan tâm chu đáo. Họ cũng phải tuân theo nhiều kiêng cấm trong ăn uống cũng như hành vi ứng xử. Trẻ sơ sinh được đặt tên sau một tháng.
Ma chay: Tục thiêu xác chỉ thực hiện đối với người đứng đầu bản (chầu bản). Các trường hợp khác đều thổ táng. Lễ thiêu xác chầu bản do chẩu hua (ông sư) chủ trì với các nghi thức Phật giáo đã được hoà nhập và cải biến hợp với truyền thống tộc người. Người Lào không khóc trong các đám tang bởi họ quan niệm sự chết chỉ là quá trình thay đổi thế giới.
Lễ tết: Người Lào theo Phật lịch và ăn tết vào tháng 4 âm lịch hàng năm (Bun Pi May). Hàng tháng, vào ngày rằm và ba mươi có tục dâng lễ lên tháp theo nghi thức Phật giáo, lễ vật chỉ có hoa quả. Họ cũng có nhiều nghi thức tín ngưỡng khác liên quan đến nông nghiệp như lễ cầu mưa (Xo Nặm Phôn) hay có tục ăn cơm mới.
Thờ cúng: Mỗi gia đình đều có nơi thờ tổ tiên. Mỗi bản làng có một ông thầy cúng (món) chuyên việc cúng khi có người đau ốm. Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa và xã hội người Lào.
Học: Người Lào có chữ theo mẫu tự Sanscrit. Hiện nay vẫn còn nhiều sách viết trên lá cọ do các thầy cúng (mo lắm) giữ. Xưa, con trai đều phải kinh qua học sách Phật từ 3 đến 7 năm. Học xong thầy đặt cho học trò là Siêng nghĩa là người đã giỏi chữ.
Văn nghệ: Người Lào có vốn văn học dân gian phong phú với nhiều huyền thoại, cổ tích, dân ca... Phụ nữ Lào không chỉ hát hay mà còn rất giỏi các điệu dân vũ. Do sống xen kẽ lâu đời với người Thái, văn nghệ dân gian Lào ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hoá Thái. Chính điều đó đã làm cho văn nghệ của họ thêm phong phú.
Theo cema.gov.vn
