Đối với đồng bào dân tộc Mông ở xã Nà Hẩu (huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái), lễ cúng rừng hay còn gọi Tết rừng có từ khi tổ tiên di cư đến nơi đây lập làng, lập bản và trở thành bản sắc văn hóa, tín ngưỡng dân gian độc đáo riêng có.
Độc đáo lễ cúng rừng
Xã Nà Hẩu nằm trong vùng lõi của Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu với diện tích tự nhiên hơn 5.640 ha. Toàn xã có hơn 500 hộ dân với trên 2.500 nhân khẩu. Dù cuộc sống của bà con còn nhiều khó khăn nhưng họ luôn đồng lòng gìn giữ bảo vệ rừng bằng những luật tục truyền từ đời này sang đời khác.
Ông Sùng Nhà Páo ở thôn Bản Tát chia sẻ, đối với người Mông Nà Hẩu, rừng như nguồn sống, là mái nhà che chở, chỗ dựa tinh thần của cộng đồng. Đồng bào nơi đây đã trải qua hàng trăm năm chung sống hòa thuận với rừng, bà con đặt ra những quy định, hương ước về việc giữ, bảo vệ rừng và được cộng đồng tôn trọng, truyền từ đời này sang đời khác.
Vào ngày cuối cùng của tháng Giêng hằng năm, các bản, làng trong xã Nà Hẩu lại tụ họp về khu rừng cấm, rừng thiêng của thôn để tổ chức Tết rừng. Ngày nay, dù đời sống đã hiện đại hơn và có nhiều đổi thay, nhưng người Mông ở Nà Hẩu vẫn duy trì tục lệ tốt đẹp này.
Tết rừng được mở đầu bằng phần rước lễ vật lên khu rừng cấm; nghi thức này diễn ra ở cửa rừng và dưới gốc cây cổ thụ. Lễ vật để dâng cúng thần rừng gồm một cặp gà trống - mái, một con lợn đen, xôi, rượu, hương và giấy bản. Đến giờ lành, thầy cúng mời thần linh về chứng giám, hưởng lễ vật, phù hộ, ban lộc rừng cho người dân, cầu cho mưa thuận, gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu...
Sau lễ Tết rừng, các thôn bản của xã Nà Hẩu đều cấm rừng 3 ngày để tạ ơn thần rừng. Đây cũng là dịp để đồng bào Mông ăn Tết rừng, thăm hỏi nhau, góp phần thắt chặt tình đoàn kết và chuẩn bị một năm lao động mới với những điều tốt đẹp sẽ đến với mọi người, mọi nhà.
Tín ngưỡng thờ thần rừng của đồng bào Mông được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Ở tất cả thôn bản của xã Nà Hẩu đều có một khu rừng cấm - rừng thiêng nằm ở địa thế đẹp nhất của thôn, nơi hội tụ đầy đủ linh khí của trời đất để thờ cúng thần rừng. Theo quan niệm của người Mông, những cánh rừng xanh, rừng cấm, rừng thiêng gần bản là nơi chở che dân bản tránh gió, tránh lũ ống, lũ quét, cho dân bản sản vật để ăn, nguồn nước để uống và tưới tiêu cho ruộng đồng. Giữ cánh rừng luôn tươi tốt cũng chính là giữ cho bản làng luôn bình an, no ấm. Vì vậy không một người dân nào tự ý vào rừng phá rừng trái phép. Với người Mông ở Nà Hẩu, việc giữ rừng giống như giữ mái nhà nên ai cũng tự bảo nhau không được phá rừng làm nương rẫy, không để người lạ vào rừng...
Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
Tết rừng giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người Mông; là sản phẩm sáng tạo thể hiện sự gắn kết cộng đồng. Tết rừng còn trở thành tập quán lâu đời để người Mông Nà Hẩu nhớ về cội nguồn. Đó là nét đẹp văn hóa đáng được trân trọng của người dân sống nơi đại ngàn xanh Nà Hẩu, đồng thời góp phần thiết thực vào quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng, môi trường sinh thái, đa dạng sinh học ở huyện Văn Yên và toàn tỉnh Yên Bái.
Bí thư Đảng bộ xã Nà Hẩu Vũ Xuân Bá cho biết, Tết rừng là nghi lễ truyền thống lớn nhất và có ý nghĩa quan trọng nhất trong năm đối với người dân nơi đây. Nghi lễ không chỉ có ý nghĩa tâm linh cầu phúc, giúp bảo tồn các giá trị vật chất, tinh thần trong cộng đồng dân tộc Mông mà còn góp phần thiết thực bảo vệ rừng. Nhờ vậy nhiều năm qua, diện tích rừng nguyên sinh đặc dụng trong vùng lõi của Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu được các nhóm hộ nhận khoán bảo vệ tốt, góp phần đưa nơi đây trở thành địa phương hiếm có ở Yên Bái với độ che phủ rừng đạt 90%.
Với những nghi lễ truyền thống, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Mông cùng những tục lệ tốt đẹp lưu truyền hàng trăm năm nay, ngày 10/12/2024, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Lễ cúng rừng của đồng bào Mông, xã Nà Hẩu, huyện Văn Yên (Yên Bái) vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là niềm vinh dự, tự hào để người dân bảo tồn, phát huy giá trị di sản Lễ cúng rừng hằng năm.
Ông Lê Thành Hùng, Phó Chủ tịch UBND huyện Văn Yên cho biết: Đây không chỉ là niềm vinh dự, tự hào mà còn là điểm tựa để huyện Văn Yên bảo tồn, phát huy giá trị di sản Lễ cúng rừng và các di sản văn hóa khác theo phương châm “lấy người dân là trung tâm, là chủ thể của các hoạt động”, “biến di sản thành tài sản” phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Qua đó, Văn Yên quảng bá, tuyên truyền ý thức giữ rừng, từng bước thu hút khách du lịch đến tham quan hệ sinh thái rừng nguyên sinh; thưởng thức các sản phẩm ẩm thực của người dân làm ra, tạo điều kiện phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái lâu dài, bền vững.
Đinh Thùy - Thu Nhài
Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo.
Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.
Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo.
Dân số: 1.068.189 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao.
Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu...
Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.
Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.
Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép. Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.
Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ.
Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.
Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.
Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.
Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.
Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.
Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.
Ở: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.
Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.
Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.
Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.
Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.
Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.
Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.
Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ...
Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.
Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.
Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.
Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.
Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.
Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).
Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.
Theo cema.gov.vn