Vẻ đẹp trang phục riêng có của phụ nữ Mường Hòa Bình

Nếu đã từng đến Hòa Bình, ghé thăm bốn vùng Mường nổi danh: Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng, Mường Động, du khách sẽ không khỏi xao xuyến trước vẻ đẹp của cảnh quan, sự giao thoa đa dạng về văn hóa, sự nồng hậu thân thiện của người dân nơi đây và đặc biệt là vẻ đẹp đằm thắm dịu dàng của những người con gái Mường trong trang phục dân tộc áo Pắn.

vna_potal_gin_giu_ve_dep_rieng_co_cua_trang_phuc_phu_nu_muong_hoa_binh_7299883.jpg
Phụ nữ Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng trong lễ hội xuống đồng của dân tộc Mường Hòa Bình. Ảnh: Trọng Đạt - TTXVN

Nét đẹp độc đáo vào ấn tượng

Cũng như phụ nữ bao dân tộc khác, dân tộc Mường có trang phục riêng biệt của mình. Những chiếc áo, váy, phụ kiện thường được mặc trong những ngày hội, lễ Tết và đôi lúc trong sinh hoạt hàng ngày.

Chiếc áo mặc ngoài của phụ nữ Mường mang nhiều màu sắc khác nhau của các vùng Mường, gọi là áo Pắn hay còn gọi là áo ngắn. Áo Pắn dài đến đáy eo lưng, phía sau có đường can vải theo dọc sống lưng. Phía trước cổ áo cắt xẻ sâu xuống phía ngực. Áo Pắn xưa của người Mường may cổ tròn ống tay may nối, tuy nhiên ngày nay, tay áo Pắn không còn may nối vai mà được cắt may liền theo kiểu áo bà ba, thon dần về phía cổ tay.

vna_potal_gin_giu_ve_dep_rieng_co_cua_trang_phuc_phu_nu_muong_hoa_binh_7299899.jpg
Phụ kiện đi cùng với trang phục Mường ngoài vòng bạc, vòng cườm đeo cổ, đeo tay thì tênh và bộ xà tích bạc là điểm nhấn đặc sắc. Ảnh: Trọng Đạt - TTXVN

Màu sắc trang phục của phụ nữ dân tộc Mường trang nhã, thanh thoát, mang một vẻ đẹp riêng đậm tính cách của người phụ nữ Mường đầy chân thành, tinh tế.Chị Bùi Bích Lệ, xã Hợp Phong, huyện Cao Phong cho biết, màu sắc trên trang phục người phụ nữ Mường không quá rực rỡ, được thể hiện qua từng bộ phận trên trang phục. Đối với váy luôn phải là màu đen hoặc xanh đen, khăn đội trên đầu luôn là màu trắng, tuy nhiên với cách xử lý tinh tế về màu sắc bằng cách phối hợp khăn đội đầu, áo ngắn với yếm, bộ tênh và nhất là màu sắc, hoa văn trên cạp váy đã làm bộ trang phục của phụ nữ Mường trở nên độc đáo, có nét riêng biệt. Trong những ngày hội, lễ Tết ở các vùng Mường tỉnh Hòa Bình, các mế khà và ún mạng (bà cụ già và chị em trong các bản mường) xúng xính trong áo Pắn, váy đen, chiếc thắt lưng xanh cùng bộ xà tích bằng bạc, tay cầm chiêng Mường gióng lên thanh âm rền vang.

vna_potal_gin_giu_ve_dep_rieng_co_cua_trang_phuc_phu_nu_muong_hoa_binh_7299880.jpg
Phụ nữ Mường Hòa Bình với trang phục truyền thống. Ảnh: Trọng Đạt - TTXVN

Với những thiết kế, đặc điểm riêng có trong trang phục của các vùng Mường, các cô gái Mường Bi, Mường Vang là màu áo Pắn trắng xanh lơ; những cô gái Mường Động áo màu hồng, còn các cô gái Mường Thàng với màu áo xanh cô-ban. Những màu sắc ấy hòa vào nhau trong không gian lễ hội và tiếng cồng chiêng, càng làm cho những phụ nữ Mường Hòa Bình thêm phần duyên dáng, xinh đẹp.

Thiết kế độc đáo và thanh lịch

Bộ trang phục của phụ nữ Mường bao gồm: Khăn thắt đầu màu trắng, người Mường gọi là mũ, mũ là một dải vải trắng không viền hình tam giác, rộng chừng một gang tay, dài quá vòng đầu để buộc thắt sau gáy. Với phụ nữ Mường, chiếc khăn đội đầu màu trắng có ý nghĩa quan trọng bởi sự tinh khiết, thanh cao vừa để thể hiện lòng kính trọng, tôn vinh với tổ tiên.

Yếm mặc bên trong áo Pắn, là một tấm vải hình vuông có màu sắc khác nhau, cạnh trên khoét tròn để ôm khít vòng cổ, có dây để buộc sau gáy, phía hai cạnh bên có dây để buộc vòng ra sau lưng, giống như cách buộc yếm của người Kinh.Tiếp đó là phần váy, váy trong trang phục người Mường chia làm hai phần chính. Phần đầu váy - hay còn gọi là cạp váy và phần thân váy. Cạp váy là phần đẹp nhất trong trang phục của phụ nữ Mường với những trang trí họa tiết, màu sắc công phu. Nghệ thuật trang trí cạp váy trong trang phục truyền thống của phụ nữ Mường nằm trong dòng nghệ thuật Đông Sơn, được thể hiện qua bố cục, các họa tiết hình học và động vật cách điệu như hình tượng mặt trời ở trung tâm trống đồng, được chuyển hóa thành các ngôi sao 8 cánh đứng san sát cạnh nhau thành một dải ngang trên cạp váy, hoặc những mô típ động vật thường thấy trên trống đồng, như: hươu, gà, công, phượng, rắn, rồng… cũng được mô phỏng lại trên cạp váy.

vna_potal_gin_giu_ve_dep_rieng_co_cua_trang_phuc_phu_nu_muong_hoa_binh_7299896.jpg
Phụ nữ dân tộc Mường mặc trang phục truyền thống. Ảnh: Trọng Đạt - TTXVN

Theo nhà văn Lê Va, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Hòa Bình, nghệ thuật trang trí cạp váy của người phụ nữ Mường một mặt phản ánh những giá trị nhân sinh xa xưa của người Việt cổ, đồng thời thể hiện tính thẩm mỹ, sáng tạo và đôi bàn tay khéo léo của những người phụ nữ ngày nay, đã tiếp nhận những giá trị truyền thống để dệt nên những chiếc cạp váy, trở thành linh hồn của trang phục phụ nữ Mường.

Thân váy được nối với phần cạp rồi khâu thành hình ống. Khi mặc người ta gấp phần thừa về đằng trước. Thân váy chủ yếu là màu đen hoặc xanh đen. Dưới gấu váy bên trong có vải nẹp màu hồng, đỏ hoặc có hoa. Khi bước lên bậc cầu thang lên nhà sàn hay khi di chuyển đi lại, chân váy xập xòe theo nhịp bước, nẹp hoa thoáng ẩn hiện tạo nét hấp dẫn, dáng vẻ riêng có của trang phục người phụ nữ Mường.Phụ kiện đi cùng với trang phục Mường ngoài vòng bạc, vòng cườm đeo cổ, đeo tay thì tênh và bộ xà tích bạc là điểm nhấn đặc sắc, thu hút mọi ánh nhìn. Tênh là một tấm vải dài được làm bằng vải đũi, màu xanh hoặc màu vàng và được khâu nối hai đầu. Khi sử dụng tênh thắt giữa phần eo và tạo nút thắt nơi hông người phụ nữ Mường. Cùng với đó, bộ sà tích bằng bạc được khéo léo đan cài vào tênh từ bên hông vòng về phía trước, nổi bật với các chi tiết trang trí hình ốc hay chùm vuốt hổ bọc bạc…

vna_potal_gin_giu_ve_dep_rieng_co_cua_trang_phuc_phu_nu_muong_hoa_binh_7299885.jpg
Phụ nữ Mường Hòa Bình mặc trang phục truyền thống trong các dịp lễ hội, Tết, đám cưới hay các sự kiện quan trọng. Ảnh: Trọng Đạt - TTXVN

Cụ bà Bùi Thị Sen, Xóm Cháo, xã Kim Bôi, huyện Kim Bôi chia sẻ, màu sắc của trang phục phụ nữ Mường không rực rỡ đa màu sắc như trang phục phụ nữ Thái, nhưng trang nhã, sâu sắc, bình dị như tính cách chân thành, tinh tế của người phụ nữ Mường. Thông qua bộ trang phục truyền thống xưa kia cũng thể hiện rõ được gia thế, độ tuổi, tầng lớp phụ nữ và các vùng Mường khác nhau tại tỉnh Hòa Bình.


Gìn giữ giá trị văn hóa của trang phục phụ nữ Mường

Theo bà Bùi Kim Phúc, Trưởng phòng Quản lý Văn hóa, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Hòa Bình, trang phục truyền thống của phụ nữ dân tộc Mường Hòa Bình là sự giao thoa, kết tinh văn hóa có chọn lọc thông qua việc bảo tồn, gìn giữ, phát huy những nét văn hóa độc đáo của người dân tộc Mường qua nhiều thế hệ. Những họa tiết, hoa văn, thiết kế trên trang phục là những câu chuyện về thế giới quan, thể hiện những khát vọng cao đẹp của cộng đồng các vùng Mường tỉnh Hòa Bình, góp phần làm phong phú thêm mảng sắc màu văn hóa các dân tộc vùng Tây Bắc nói chung và của tỉnh Hòa Bình nói riêng.

vna_potal_gin_giu_ve_dep_rieng_co_cua_trang_phuc_phu_nu_muong_hoa_binh_7299893.jpg
Phụ nữ dân tộc Mường Hòa Bình trong trang phục truyền thống. Ảnh: Trọng Đạt - TTXVN

Hiện nay với những biến động của kinh tế thị trường, sự phát triển đồng bộ của hệ thống giao thông vận tải tạo sự giao lưu dễ dàng giữa vùng miền, sự giao thoa mạnh mẽ của của các nền văn hóa trong và ngoài nước dẫn đến nhiều giá trị văn hóa đặc trưng của các dân tộc dần bị mất và mai một. Tuy nhiên tại các vùng Mường, chính quyền tỉnh Hòa Bình vẫn đang nỗ lực duy trì tổ chức phục dựng, bảo tồn các lễ hội văn hóa, các nghi lễ, phong tục truyền thống của dân tộc Mường. Phụ nữ Mường Hòa Bình vẫn lưu giữ và trang bị cho mình những trang phục truyền thống để diện trong các dịp lễ hội, Tết, đám cưới hay các sự kiện quan trọng.

Ngày 24/11/2023, UBND tỉnh Hòa Bình đã ban hành Quyết định phê duyệt Đề án "Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc Mường và nền văn hóa Hòa Bình giai đoạn 2023-2030" trên địa bàn, nhằm nghiên cứu, đánh giá việc bảo tồn giá trị của nền "Văn hóa Hòa Bình" và bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình. Qua đó, khơi dậy, phát huy tiềm năng giá trị di sản văn hóa, hướng tới hình thành một số không gian văn hóa dân tộc Mường, không gian bảo tồn nền "Văn hóa Hòa Bình"; phục chế giá trị văn hóa vật thể; phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể dân tộc Mường; tăng cường quảng bá, phát huy nền "Văn hóa Hòa Bình".

Lưu Trọng Đạt

(TTXVN)
Dân tộc Mường Dân tộc Mường

Tên tự gọi: Mol (hoặc Mon, Moan, Mual).

Nhóm địa phương: Ao Tá (Âu Tá), Mọi Bi.

Dân số: 1.268.963 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Cùng nguồn gốc với người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ...

Hoạt động sản xuất: Nông nghiệp ruộng nước chiếm vị trí hàng đầu, cây lúa là cây lương thực chính. Công cụ làm đất phổ biến là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn, nhỏ có răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng, lấy từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã. Trong canh tác ruộng nước, người Mường có nhiều kinh nghiệm làm thuỷ lợi nhỏ.

Ngoài ruộng nước, người Mường còn làm nương rẫy, chăn nuôi gia đình, săn bắn, đánh cá, hái lượm và sản xuất thủ công nghiệp (dệt vải, đan lát...).

Ăn: Họ thích ăn các món đồ như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá đồ. Cơm, rau đồ chín được dỡ ra rá tãi đều cho khỏi nát trước khi ăn. Rượu cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương vị đậm đà của men được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể.

Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to. Ðặc biệt, phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền nhau hút chung một điếu thuốc.


Mặc: Bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ được nét độc đáo. Khăn đội đầu là một mảnh vải trắng hình chữ nhật không thêu thùa, yếm, áo cánh (phổ biến là màu trắng) thân rất ngắn thường xẻ ở ngực và váy dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và cạp váy. Cạp váy nổi tiếng bởi các hoa văn được dệt kỳ công. Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 giây bạc có treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.

Thầy mo khi hành lễ mặc y phục riêng. Ðó là chiếc áo dài 5 thân cài khuy bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây lưng trắng, đội mũ vải nhọn đầu. Thầy mỡi khi cúng chữa bệnh thường đội mũ chầu.

: Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở chân núi, bên sườn đồi, nơi đất thoải gần sông suối... ở tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ. Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, khuôn viên của mỗi gia đình thường nổi bật lên những hàng cau, cây mít. Ðại bộ phận ở nhà sàn, kiểu nhà bốn mái. Phần trên sàn người ở, dưới gầm đặt chuồng gia súc, gia cầm, để cối giã gạo, các công cụ sản xuất khác.

Làm nhà mới, khi dựng cột bếp, người Mường có tục làm lễ nhóm lửa. Gia chủ lấy bẹ chuối cắt hình 3 con cá to kẹp vào thanh nứa buộc lên cột bếp, ở cột cái của bếp còn đặt một quả bí xanh. Trước lúc đun nấu ở nhà mới, gia chủ làm lễ nhóm lửa xin thần bếp cho đặt 3 hòn đầu rau và hòn đá cái. Ðêm đó gia chủ mời mọi người uống rượu cần dưới ánh sáng của ngọn lửa không tắt.

Phương tiện vận chuyển: Phụ nữ phổ biến dùng loại gùi đan bằng giang hoặc tre, 4 góc nẹp thành thẳng đứng, có dây đeo qua trán hoặc qua vai để chuyên chở. Ðôi dậu, đòn gánh có mấu 2 đầu, đòn xóc cũng thường được sử dụng.

Nước sạch được chứa trong ống nứa to, dài hơn 1 mét vác vai từ bến nước về dựng bên vách để dùng dần.

Quan hệ xã hội: Quan hệ trong làng xóm với nhau chủ yếu là quan hệ láng giềng. Gia đình 2-3 thế hệ chiếm phổ biến. Con cái sinh ra lấy họ cha. Quyền con trai trưởng được coi trọng va con trai trong gia đình được thừa kế tài sản.

Cưới xin: Trai gái tự do yêu đương tìm hiểu, ưng ý nhau thì báo để gia đình chuẩn bị lễ cưới. Ðể dẫn đến đám cưới phải qua các bước: ướm hỏi (kháo thếng), lễ bỏ trầu (ti nòm bánh), lễ xin cưới (nòm khảu), lễ cưới lần thứ nhất (ti cháu), lễ đón dâu (ti du). Trong ngày cưới, ông mối dẫn đầu đoàn nhà trai khoảng ba, bốn chục người gồm đủ nội, ngoại, bạn bè mang lễ vật sang nhà gái tổ chức cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp chít khăn trắng, gùi một chón (gùi) cơm đồ chín (bằng khoảng 10 đấu gạo), trên miệng chón để 2 con gà sống thiến luộc chín. Trong lễ đón dâu, cô dâu đội nón, mặc váy áo đẹp ngoài cùng là chiếc áo dài màu đen thắt 2 vạt ở phía trước. Cô dâu mang về nhà chồng thường là 2 chăn, 2 cái đệm, 2 quả gối tựa để biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà trai biếu cô dì, chú bác.

Sinh đẻ: Khi người vợ sắp sinh con, người chồng phải chuẩn bị nhiều củi, làm một bếp riêng ở gian trong và quây phên nứa thành một buồng kín cho vợ đẻ. Khi vợ chuyển dạ đẻ, người chồng đi báo tin cho mẹ vợ và chị em họ hàng nội ngoại biết để đến nhà cùng nhau chờ đợi. Bà đỡ cắt rốn cho đứa trẻ bằng dao nứa lấy từ đầu chiếc dui trên mái nhà. Nếu là con trai thì dùng dao nứa mái nhà trước, nếu là con gái thì dùng dao nứa mái nhà sau. Cuống rốn của các con trong gia đình được đựng chung trong một ống nứa, họ tin rằng làm như thế lớn lên anh em sẽ thương yêu nhau.

Ngày sinh con, gia đình tổ chức ăn mừng, mời thầy mo cùng trừ mọi điều xấu hại đến mẹ con. Ðẻ được 3-7 ngày thường có nhiều anh em, bà con đến thăm hỏi tặng quà. Bà ngoại mừng cháu bao giờ cũng có vài vuông vải tự dệt, gia đình khá giả mừng thêm chiếc vòng bạc đeo cổ, anh em thân thích thì mừng gạo, mừng tiền.

Người đẻ thường ăn cơm nếp cẩm với lá tắc chiềng (loại lá thuốc chống được bệnh sài), uống nước nấu với các loại lá cây thuốc và trong thời gian cữ (7 đến 10 ngày) nhất là 3 ngày đầu luôn luôn phải sưởi bên bếp lửa. Trẻ sơ sinh nếu là trai thì được âu yếm gọi là lọ mạ (thóc giống), nếu là gái thì lại trìu mến gọi là cách tắc (rau cỏ). Thường thì trẻ khoảng 1 tuổi mới được đặt tên gọi chính thức.

Ma chay: Người chết tắt thở, con trai trưởng cầm dao nín thở chặt 3 nhát vào khung cửa sổ gia thờ, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo phong tục rồi để vào trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy rồng bằng vải.

Tang lễ do thầy mo chủ trì, dẫn dắt. Bên cạnh hình thức chịu tang của con trai, con gái như vẫn bình thường thấy ở người Việt, riêng con dâu, cháu dâu chịu tang cha mẹ, ông bà còn có bộ tang phục riêng gọi là bộ quạt ma.

Lịch: Lịch cổ truyền người Mường gọi là sách đoi làm bằng 12 thẻ tre tương ứng với 12 tháng. Trên mỗi thẻ có khắc ký hiệu khác nhau để biết tính toán, xem ngày, giờ tốt xấu cho khởi sự công việc.

Người Mường ở Mường Bi có cách tính lịch khác với người Mường ở các nơi khác gọi là cách tính ngày lùi, tháng tới. Tháng giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 của lịch Mường các nơi khác và tháng 10 âm lịch.

Văn nghệ: Hát Xéc bùa (có nơi gọi Xắc bùa hay Khoá rác) được nhiều người ưa thích. Thường (có nơi gọi Ràng thường hoặc Xường) là loại dân ca ca ngợi lao động, và các nét đẹp phong tục dân tộc. Bọ mẹng là hình thức hát giao du tâm sự tình yêu. Ví đúm cũng là loại dân ca phổ biến.

Bên cạnh đó, người Mường còn có các thể loại hát khác như hát ru, hát đồng dao... Ðặc biệt, ở người Mường phải kể đến lễ ca. Ðó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang.

Ngoài sáo, nhị, trống, kèn... thì cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc.

Chơi: Trò chơi của người Mường gần gũi với mọi đối tượng. Có những trò chơi được tổ chức chu đáo, công phu như: thi bắn nỏ, đánh đu, ném còn... Các trò chơi của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng được tổ chức linh hoạt ở mọi nơi, mọi lúc với những điều kiện chơi đàn giản, tiện lợi như trò đánh cá cắt, trò cò le, trò đánh chó hoặc buôn chó, trò đánh mảng, trò chăm chỉ, chằm chăn.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm