Người Lào ở Lai Châu có trang phục truyền thống và tục nhuộm răng đen rất mang nét đặc sắc riêng.
Áo và váy của người phụ nữ Lào được thiết kế tỉ mỉ công phu với màu chủ đạo là màu đen nhuộm chàm. Áo xẻ ngực, được buộc thắt bởi những dây tua sặc sỡ kết hợp với trang sức bằng bạc, nhôm hoặc đồng. Khăn quấn còn gọi là "phạ phe" giúp tô điểm thêm vẻ đẹp chịu thương chịu khó của người phụ nữ Lào ở Lai Châu. Trang phục nam giới đơn giản hơn với quần và áo nhuộm chàm đen.
Khác với phụ nữ, trang phục của nam giới đơn giản hơn với với quần, áo được nhuộm chàm đen, đầu quấn khăn màu trắng. Ảnh: Nguyễn Oanh-TTXVN
Thiếu nữ Lào xinh đẹp trong trang phục truyền thống. Ảnh: Nguyễn Oanh-TTXVN
Váy áo của phụ nữ Lào đều được thêu tỉ mỉ, hoa văn cầu kỳ rất công phu. Ảnh: Nguyễn Oanh-TTXVN
Những sợi dây cũng được thêu vẽ cầu kỳ, nhiều sắc màu để làm nổi bật cho trang phục của phụ nữ Lào. Ảnh: Nguyễn Oanh-TTXVN
Hoa văn trên áo được thêu dệt cầu kỳ kết hợp với phụ kiện tạo nên nét nổi bật cho trang phục. Ảnh: Nguyễn Oanh-TTXVN
Hoa văn với nhiều màu sắc được dệt trên màu áo chàm đen tạo điểm nhấn nổi bật cho trang phục. Ảnh: Nguyễn Oanh-TTXVN
Khăn quấn đầu màu đen, được trang trí các phụ kiện cầu kỳ. Ảnh: Nguyễn Oanh-TTXVN
Nam giới lào trong trang phục truyền thống thổi khèn Bè. Ảnh: Nguyễn Oanh-TTXVN
Những phụ kiện làm từ bạc như: vòng, lắc, hoa văn trang trí được chạm khắc cầu kỳ trên trang phục của phụ nữ Lào. Ảnh: Nguyễn Oanh-TTXVN
Trang phục truyền thống của phụ nữ Lào được sử dụng trong lễ hội và cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Ảnh: Nguyễn Oanh-TTXVN
Ngay từ nhỏ, trẻ em dân tộc Lào được người lớn cho mặc trang phục truyền thống của người Lào. Ảnh: Nguyễn Oanh-TTXVN
Trang phục truyền thống nổi bật của phụ nữ Lào khi tham gia Lễ hội Bun Vốc Nặm (Lễ hội té nước) tại xã Nà Tăm, huyện Tam Đường. Ảnh: Nguyễn Oanh-TTXVN
Một người mẹ sửa lại trang phục cho con gái vui Lễ hội Bun Vốc Nặm (Lễ hội té nước) tại xã Nà Tăm, huyện Tam Đường. Ảnh: Nguyễn Oanh-TTXVN
Khăn quấn đầu của phụ nữ Lào được gắn trang sức cầu kỳ. Ảnh: Nguyễn Oanh-TTXVN
Tục nhuộm răng của người Lào nơi đây đã có từ lâu, không chỉ mang lại vẻ đẹp cho người phụ nữ mà còn có ý nghĩa may mắn. Vì thế đa phần phụ nữ lớn tuổi đều nhuộm răng đen.
Nguyễn Oanh
Tên tự gọi: Thay, Thay Duồn, Thay Nhuồn.
Tên gọi khác: Phu Thay, Phu Lào.
Nhóm địa phương: Lào Bốc (Lào Cạn) và Lào Nọi (Lào Nhỏ).
Dân số: 14.928 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Lịch sử: Người Lào có nguồn gốc di cư từ Lào sang.
Hoạt động sản xuất: Người Lào làm ruộng nước với kỹ thuật dẫn thuỷ nhập điền hợp lý. Ngoài ra họ còn làm nương, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tiểu thủ công nghiệp gia đình của dân tộc đặc biệt phát triển. Họ làm gốm bằng bàn xoay với các sản phẩm như chum vại, vò, ché, nồi với chất lượng tốt. Nghề dệt thổ cẩm tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao, thể hiện thẩm mỹ tinh tế. Nghề rèn, nghề chạm bạc... cũng góp phần thu nhập đáng kể cho nhiều gia đình. Hái lượm còn có vai trò nhất định đối với đời sống kinh tế của người Lào.
Ăn: Người Lào ăn nếp là chính. Về thực phẩm họ ưa ăn các món chế biến từ cá; đặc biệt có món Pàđẹc (cá ướp) rất nổi tiếng.
Mặc: Phụ nữ Lào mặc váy thắt ngang ngực, buông ngang tầm bắp chân. Gấu váy thêu hoa văn màu tươi sáng rực rỡ. áo nữ ngắn, để hở phần ngực trên. Chiếc trâm bạc cài tóc hay khăn piêu đội đầu của phụ nữ Lào cũng được chạm khắc hoặc thêu thùa khéo léo. Nam phục Lào có nhiều nét tương đồng với người Thái.
Ở: Người Lào cư trú xen kẽ với người Thái, người Lự, người Khơ Mú ở các huyện Ðiện Biên, Phong Thổ (Lai Châu) và Sông Mã (Sơn La). Họ ở nhà sàn, lòng rộng, thoáng đãng, cột kèo được chạm khắc tinh vi. Mái nhà thường kéo dài tạo nên hiên để đặt khung cửi và các công cụ làm vải.
Phương tiện vận chuyển: Người Lào quen gùi, gánh đôi dậu, đặc biệt giỏi đi thuyền trên sông, ở một số nơi họ còn sử dụng ngựa thồ.
Quan hệ xã hội: Trước kia xã hội người Lào tuy phụ thuộc hệ thống tổ chức hành chính của phong kiến Thái nhưng được tự quản ở cấp bản. Mỗi bản có một người đứng đầu gọi là chẩu bản đại diện cho lợi ích cộng đồng. Thiết chế tự quản chi phối nhiều tới hoạt động kinh tế, đời sống tâm linh và đạo đức truyền thống.
Cũng như người Thái, người Lào quan niệm mỗi người có ba quan hệ họ hàng chính: ải Noọng - Lung Ta - Dinh Xao. Các dòng họ đều có tục kiêng cấm liên quan đến tô tem giáo.
Cưới xin: Theo nguyên tắc hôn nhân thuận chiều. Con trai phía họ Dinh Xao được phép và khuyến khích lấy con gái phía họ Lung Ta, nhưng nghiêm cấm lấy ngược lại. Không có tục hôn nhân anh em chồng hoặc hôn nhân chị em vợ. Gia đình của người Lào dù lớn hay nhỏ mang tính phụ quyền rõ rệt mặc dầu người phụ nữ vẫn được đề cao. Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên nhà chồng. Gia đình của họ thường bền vững, ít có trường hợp đa thê, ngoại tình hay ly dị. Quan hệ trong mỗi nhà thường hoà hiếu, con cái được chăm sóc như nhau không phân biệt trai gái.
Sinh đẻ: Phụ nữ mang thai và sinh đẻ được chăm sóc và quan tâm chu đáo. Họ cũng phải tuân theo nhiều kiêng cấm trong ăn uống cũng như hành vi ứng xử. Trẻ sơ sinh được đặt tên sau một tháng.
Ma chay: Tục thiêu xác chỉ thực hiện đối với người đứng đầu bản (chầu bản). Các trường hợp khác đều thổ táng. Lễ thiêu xác chầu bản do chẩu hua (ông sư) chủ trì với các nghi thức Phật giáo đã được hoà nhập và cải biến hợp với truyền thống tộc người. Người Lào không khóc trong các đám tang bởi họ quan niệm sự chết chỉ là quá trình thay đổi thế giới.
Lễ tết: Người Lào theo Phật lịch và ăn tết vào tháng 4 âm lịch hàng năm (Bun Pi May). Hàng tháng, vào ngày rằm và ba mươi có tục dâng lễ lên tháp theo nghi thức Phật giáo, lễ vật chỉ có hoa quả. Họ cũng có nhiều nghi thức tín ngưỡng khác liên quan đến nông nghiệp như lễ cầu mưa (Xo Nặm Phôn) hay có tục ăn cơm mới.
Thờ cúng: Mỗi gia đình đều có nơi thờ tổ tiên. Mỗi bản làng có một ông thầy cúng (món) chuyên việc cúng khi có người đau ốm. Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa và xã hội người Lào.
Học: Người Lào có chữ theo mẫu tự Sanscrit. Hiện nay vẫn còn nhiều sách viết trên lá cọ do các thầy cúng (mo lắm) giữ. Xưa, con trai đều phải kinh qua học sách Phật từ 3 đến 7 năm. Học xong thầy đặt cho học trò là Siêng nghĩa là người đã giỏi chữ.
Văn nghệ: Người Lào có vốn văn học dân gian phong phú với nhiều huyền thoại, cổ tích, dân ca... Phụ nữ Lào không chỉ hát hay mà còn rất giỏi các điệu dân vũ. Do sống xen kẽ lâu đời với người Thái, văn nghệ dân gian Lào ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hoá Thái. Chính điều đó đã làm cho văn nghệ của họ thêm phong phú.
Theo cema.gov.vn