Nét đẹp phong tục cưới hỏi của người Giáy

Nếu có dịp tìm hiểu phong tục cưới hỏi của người Giáy ở Lai Châu, bạn sẽ ấn tượng với hình ảnh cô dâu, chú rể trong bộ trang phục truyền thống đẹp mắt. Vào ngày cưới, chú rể mặc quần đen, áo dài xanh truyền thống với 2 ruy băng đỏ đan chéo trước ngực, tay cầm ô. Cô dâu mặc áo lụa mềm sắc hồng được trang trí những đường vải màu cùng chiếc khăn đội đầu như một tiêu chuẩn về vẻ đẹp của phụ nữ Giáy.

10-dam cuoi nguoi Giay-Viet Nguyen.jpg
Cô dâu, chú rể cùng đám rước trên đường về nhà chồng. Ảnh: Việt Nguyễn

Đám cưới của người Giáy luôn có lễ hỏi và lễ rước dâu. Tuy nhiên, lễ rước dâu mới thực sự là một cuộc trình diễn văn hóa, đánh dấu bước khởi đầu cho cuộc sống hôn nhân của đôi trai gái. Đoàn rước dâu thường có đội Pí kẻo (kèn truyền thống), bà mối, chú rể, phù rể và những người mang theo lễ vật. Trong âm thanh của Pí kẻo, những lời ca cất lên như tạo thêm không khí vui tươi cho đám rước. Trên đường đón dâu, đội nhạc lễ luôn thổi Pí kẻo để thông báo cho anh em, họ hàng, bản làng được biết.

10-dam cuoi nguoi Giay-Viet Nguyen.jpg
Đám cưới là dịp thể hiện những nét đẹp văn hóa truyền thống của người Giáy. Ảnh: Việt Nguyễn
8a-dam cuoi nguoi Giay-Viet Nguyen.jpg
Cô dâu người Giáy thường trùm chiếc khăn màu đỏ trong lễ rước dâu. Ảnh: Việt Nguyễn

Tới cổng nhà gái, sau thủ tục chào hỏi, nhà trai hát bài xin mở cổng. Khi được chấp thuận, tiếng Pí kẻo lại vang lên xin phép tổ tiên, dòng tộc nhà gái để vào nhà. Kết thúc thủ tục đón dâu, đội Pí kẻo thắp hương và thổi những bài cảm tạ, chúc phúc đôi vợ chồng, báo hiệu giờ tốt đón dâu. Trên suốt đoạn đường về, tiếng Pí kẻo luôn rộn ràng, réo rắt, như mừng vui thông báo đã đón được dâu về.

Việt Nguyễn

(Báo ảnh Dân tộc và Miền núi)
Dân tộc Giáy Dân tộc Giáy

Tên tự gọi: Giáy

Tên gọi khác: Nhắng, Giẳng

Dân số: 58.617 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng Giáy thuộc ngữ hệ Thái - Ka Ðai.

Lịch sử: Người Giáy từ Trung Quốc di cư sang Việt Nam cách đây khoảng 200 năm.

Hoạt động sản xuất: Người Giáy có nhiều kinh nghiệm canh tác lúa nước trên những triền ruộng bậc thang. Bên cạnh đó họ còn làm thêm nương rẫy trồng ngô, lúa, các loại cây có củ và rau xanh. Chăn nuôi theo lối thả rông. Có một số nghề thủ công nhưng chưa phát triển.

Ăn: Ăn cơm tẻ. Gạo được luộc cho chín dở rồi mới cho vào chõ đồ lên như đồ xôi. Nước luộc gạo dùng làm đồ uống. Cách chế biến món ăn, nhất là ăn trong ngày lễ, ngày tết chịu ảnh hưởng sâu sắc của người Hán.

Mặc: Trước kia phụ nữ mặc váy xoè giống như váy của người Mông. Ngày nay họ mặc quần màu chàm đen có dải vải đỏ đắp trên phần cạp, áo cánh 5 thân xẻ tà, dài quá mông, cài khuy bên nách phải, hò áo và cổ tay áo viền những dải vải khác màu. Tóc vấn quanh đầu với những sợi chỉ hồng thả theo đuôi tóc. Vai khoác túi thêu chỉ màu với hoa văn là những đường gấp khúc. Nam giới mặc quần lá toạ, áo cánh xẻ tà, mở khuy ngực.

: Người Giáy cư trú ở các huyện Bát Xát, Bảo Thắng, Mường Khương (Lào Cai), Yên Minh, Ðồng Văn (Hà Giang), Phong Thổ, Mường Tè (Lai Châu). Nhà sàn là nhà ở truyền thống. Hiện nay, kiểu nhà sàn vẫn phổ biến trong bộ phận người Giáy ở Hà Giang, còn bộ phận ở Lào Cai và Lai Châu ở nhà đất nhưng phía trước nhà vẫn là sàn phơi. Nhà thường có 3 gian, bàn thờ đặt ở gian giữa.

Phương tiện vận chuyển: Họ gánh bằng dậu, dùng ngựa thồ, trâu kéo.

Quan hệ xã hội: Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Giáy có sự phân hoá giai cấp rõ rệt. Tầng lớp trên là những chức dịch trong bộ máy chính quyền ở xã, thôn bản, nhiều người được hưởng ruộng công do dân cày cấy, có rừng thảo quả do dân trồng, có lính phục dịch, có người lo việc tang, việc cưới, đôi khi có cả đội xoè. Nông dân, ngoài đóng thuế còn phải làm lao dịch và cống nạp cho các chức dịch.

Cưới xin: Gồm nhiều nghi lễ: dạm hỏi, thả mối, ăn hỏi, cưới và lại mặt. Trong lễ ăn hỏi nhà trai đưa cho nhà gái một vòng cổ và một vòng tay để "đánh dấu". Trong lễ cưới ngoài chi phí cho ăn uống, nhà trai còn phải mang cho nhà gái một số thực phẩm và tiền để làm quà tặng họ hàng gần; mỗi người một con gà, một con vịt và một đồng bạc trắng. ở người Giáy cũng có tục kéo vợ như người Mông.

Sinh đẻ: Khi có thai phụ nữ phải kiêng nhiều thứ: không đun củi từ ngọn lên gốc (sợ đẻ ngược), không đến đám tang hay nơi thờ cúng (sợ mất vía). Gần đến ngày đẻ, họ phải cúng mụ. Trẻ đầy tháng cúng báo tổ tiên, đặt tên và lập lá số cho trẻ để sau này đem so tuổi khi lấy vợ, lấy chồng và chọn giờ nhập quan, hạ huyệt khi chết đi.

Ma chay: Người Giáy cho rằng khi người ta chết, nếu ma chay chu đáo thì sẽ được lên trời sống sung sướng cùng với tổ tiên, nếu không sẽ bị đưa xuống âm ti hoặc biến thành con vật. Vì thế, ở những gia đình khá giả đám tang có thể kéo dài tới 5-7 ngày và có thêm một số nghi lễ như thả đèn trôi sông, rước hồn đi dạo... Con cái để tang bố mẹ một năm. Lễ đoạn tang thường được tổ chức vào dịp cuối năm.

Thờ cúng: Bàn thờ đặt ở gian giữa, thường có ba bát hương theo thứ tự từ trái sang phải thờ táo quân, trời đất và tổ tiên. Trong trường hợp chủ nhà là con nuôi hay con rể thừa tự muốn thờ họ bố mẹ đẻ thì đặt thêm một bát hương ở bên trái. Những gia đình không thờ bà mụ trong buồng thì đặt thêm một bát hương ở bên phải. Ở một số gia đình ngoài bàn thờ lớn còn đặt một bàn thờ nhỏ để thờ bố mẹ vợ. Phía dưới bàn thờ lớn ngay trên mặt đất đặt một bát hương cúng thổ địa, ở hai bên cửa chính có hai bát hương thờ thần giữ cửa.

Lễ tết: Người Giáy ăn Tết như các dân tộc ở vùng Ðông Bắc: Tết Nguyên đán, Thanh minh, Ðoan ngọ....

Lịch: Người Giáy theo âm lịch.

Học: Người Giáy chưa có văn tự, chỉ có một số rất ít người biết chữ Hán.

Văn nghệ: Trong kho tàng văn nghệ của người Giáy có truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, đồng dao, phong dao... Ở người Giáy có ba kiểu hát mà họ gọi là "vươn" hay "phướn" hát bên mâm rượu, hát đêm và hát tiễn dặn...

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm