Tái hiện nghi lễ “Đặt tên âm và lên đèn” của đồng bào Dao

Trong khuôn khổ các hoạt động nhân "Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam” năm 2024, tại Làng Văn hóa, Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào Dao quần chẹt đến từ tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức tái hiện nghi lễ “Đặt tên âm và lên đèn” trong lễ Cấp sắc độc đáo của dân tộc mình.

Người Dao ở huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa còn bảo tồn nhiều phong tục tập quán truyền thống, đặc biệt là các nghi lễ chu kỳ đời người, trong đó có lễ Cấp sắc.

z5366976810929_f77c0764a08f546f8af4ff533c93fa0f.jpg
Treo tranh thờ chuẩn bị nghi lễ "đặt tên âm và lên đèn" trong lễ Cấp sắc của đồng bào Dao. Ảnh: Hải Ly

Lễ Cấp sắc là nghi lễ thể hiện nhân sinh quan, tín ngưỡng, văn hóa đời sống đồng bào người Dao. Đây là nghi lễ quan trọng, công nhận sự trưởng thành đối với người đàn ông.

z5366969045212_d40762d7ca48c4151eb0935b68c3a657.jpg
Các vật khí quan trọng để thầy cúng sử dụng trong lễ cúng. Ảnh: Hải Ly

Trong lễ Cấp sắc, người thụ lễ được đặt pháp danh (tên âm). Sau khi trải qua nghi lễ này, người đàn ông Dao được công nhận là con cháu Bàn Vương, được trao quyền làm thầy, được cấp âm binh và được thờ cúng tổ tiên.

z5366982338438_d9bf4bafe99fd8ed6e5e66edc597c305.jpg
Bộ tranh thờ và các lễ vật trong lễ cúng của đồng bào Dao. Ảnh: Hải Ly

Lễ Cấp sắc là sự kết hợp giữa văn hóa tâm linh và văn hóa nghệ thuật-âm nhạc,... các lễ vật trong lễ Cấp sắc có: Thịt lợn, thịt gà, bánh giầy, bị gạo, rượu, tiền đồng, bộ tranh Đại đường, vải trắng, thanh âm dương, dấu gỗ, đèn, nến, mũ, tranh đội đầu lúc múa, thuyền tượng trưng, áo choàng ngoài, hương, tiền ma, ghế ngồi cấp sắc, gậy thầy cúng, thanh kiếm, ấm rót nước cúng, hũ rượu… Kết hợp với âm nhạc dân tộc: trống, chiêng, kèn, chũm chọe, tù và, chuông đồng, thanh la.

z5366973876826_5b2880c866d2125cfa985c10be074ddc.jpg
Thầy cúng làm lễ xin thần linh, thổ địa tổ chức lễ Cấp sắc. Ảnh: Hải Ly

Tại buổi tổ chức lễ có Thầy Cúng (3 thầy chính và 4 thầy phụ giúp việc), 1 người thụ lễ, Bố mẹ người thụ lễ, 03 người hát ví, 01 người thổi kèn, 01 người thổi tù và, 01 đánh trống, chiêng cùng với những người được mời đến tham dự.

z5366974674342_b8e66f7351cc5533c4377572c7c24fb1.jpg
Thầy cúng đốt vàng mã để xin thần linh, thổ địa làm lễ. Ảnh: Hải Ly

Một trong những phần nghi lễ quan trọng của lễ Cấp sắc là “Lễ đặt tên âm và lên đèn”. Trước tiên đồng bào người Dao chuẩn bị và mời thầy cúng. Chuẩn bị vào lễ, thầy cúng thắp hương ở bàn thờ tổ, làm phép xua đuổi tà ma xấu để buổi lễ được diễn ra tốt đẹp. Trống, chiêng, chuông bắt đầu nổi lên, mùi hương nồng ấm lan tỏa khắp nhà, những bức tranh rực rỡ sắc màu mang lại vẻ uy nghi, đàn lễ tươm tất… đã tạo nên một không gian thiêng.

DSC00400.JPG
Thầy cúng làm lễ trình diện người chuẩn bị thụ lễ. Ảnh: Hải Ly

Tiếp đến thầy cúng làm lễ xin phép và trình diện. Lúc này các thầy cúng cầm que tre đi vòng quanh và đứng đằng sau người thụ lễ, làm các động tác khác nhau để trình diện người thụ lễ lên gia tiên dòng tộc.

z5366981659079_7f7fa9bb64f0fa30a160a3f78ef0f0f7 (1).jpg
Nghi lễ đội mũ cho người được Cấp sắc. Ảnh: Hải Ly

Thầy cúng đặt và viết tên thiêng của người chịu lễ lên bàn cúng để xin sự chứng nhận của các thần, thánh. Đây là lễ báo cáo với các thần linh, tổ tiên về việc đặt tên thứ hai (tên âm) cho người con trai trong dòng tộc được ghi vào gia phả. Khi qua đời, con cháu sẽ cúng giỗ theo tên âm, lễ vật gồm có gạo, tiền đồng, áo rồng và mũ của người thụ lễ, đạo sắc cho người thụ lễ, đèn, nến. Việc đầu tiên là thầy cả khấn và trao áo rồng, mũ cho người thụ lễ, người thụ lễ quỳ lạy trước đàn lễ và bàn thờ tổ tiên.

z5366967726892_02cb88391eb84ab419a0b6163ed36081.jpg
Người thụ lễ quỳ lạy trước đàn lễ để thực hiện nghi lễ lên đèn. Ảnh: Hải Ly

Sau khi thầy cúng xin âm dương tìm sự đồng ý của tổ tiên và thần linh cho tên mà gia đình chọn, tiếp theo là lễ lên đèn. Người thụ lễ được soi sáng bằng 3 ngọn đèn và 7 ngọn đèn. Thầy cả vừa múa vừa phép, thầy hai đọc các đạo sắc, những điều thề nguyện và điều răn dạy.

z5367087347634_36669482c3c3a3e3d498f85578e6c5d3.jpg
Các thầy múa và làm phép xung quanh người thụ lễ. Ảnh: Hải Ly
z5366966061184_897d89fc2d8e60cbdfe83809484116fb.jpg
Nghi lễ lên đèn cho người được cấp sắc. Ảnh: Hải Ly

Sau khi lên đèn, các thầy cúng mời gia tiên, thần thánh và mời Ngọc hoàng để chứng kiến lễ truyền phép cho người thụ lễ. Bảy thầy làm phép, đi xung quanh chiếc thuyền tượng trưng để đưa người thụ lễ đi “tầm sư học đạo”. Làm phép xong, bảy thầy đỡ người thụ lễ dậy, để ngồi ghế cạnh bàn thờ. Thuyền được cuộn lại, đem cất.

z5366961533042_31e7a8a6aa43e3c2da796081556a9140.jpg
Lễ Cấp sắc là nghi lễ quan trọng, công nhận sự trưởng thành đối với người đàn ông dân tộc Dao. Ảnh: Hải Ly

Lễ Cấp sắc vừa chứa đựng giá trị nhân văn, vừa mang tính giáo dục sâu sắc, thể hiện qua các điều kiện giáo huấn ghi trong các văn bản cấp sắc. Đây là một trong những nghi lễ mang đậm tín ngưỡng văn hóa dân tộc Dao cần được bảo tồn, giữ gìn và phát huy.

Hải Ly

(Báo ảnh Dân tộc và Miền núi)
Dân tộc Dao Dân tộc Dao

Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).

Tên gọi khác: Mán.

Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).

Dân số: 751.067 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.

Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.

Hoạt động sản xuất: Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.

Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.

Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...

Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.

Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.

Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay.

Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.

Mặc: Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.

Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục theo rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.

: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.

Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.

Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.

Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.

Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.

Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.

Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.

Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.


Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được.

Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa.

Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.

Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.

Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo.

Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm