Ngày 1/9, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào dân tộc Nùng đến từ tỉnh Lạng Sơn đã tái hiện Lễ cưới của dân tộc mình, thể hiện nét văn hóa truyền thống độc đáo qua các nghi thức, nghi lễ.
Chú rể đón cô dâu về nhà. Ảnh: Nam Sương |
Đối với đồng bào dân tộc Nùng, phong tục hôn nhân là một vốn văn hóa cổ tryền đặc sắc. Để tiến tới hôn nhân, người Nùng phải thực hiện trang trọng các nghi lễ như: Lễ so tuổi, Lễ dạm hỏi, Lễ dẫn cưới, Lễ đón dâu, Lễ lại mặt và một số tục lệ khác. Trong đó Lễ cưới là một nghi lễ đặc biệt đã lưu truyền trong đời sống người Nùng qua nhiều thế hệ.
Đoàn rước dâu đưa cô dâu về đến nhà trai. Ảnh: Hoàng Tâm |
Đầu tiên là lễ so tuổi. Trên cơ sở tình yêu của đôi bạn trẻ, nhà trai sẽ mang sang nhà gái một đôi quả cau để xin thông tin về ngày, tháng, năm sinh của cô gái. Nếu xét thấy hợp nhau, nhà trai sẽ đến nhà gái lần hai để làm lễ dạm hỏi. Trong lễ dạm hỏi, nhà trai chọn một người làm ông mối, người này phải là người đã có gia đình và có cả con trai và con gái, thay mặt nhà trai bàn với nhà gái về việc hôn lễ. Nếu được gia đình nhà gái đồng ý thì nhà trai sẽ hẹn ngày đến để làm lễ ăn hỏi.
Nhà trai phải sửa soạn mâm lễ cúng để xua đuổi tà ma khi cô dâu về nhà chồng. Ảnh: Hoàng Tâm |
Sau lễ dạm hỏi là lễ ăn hỏi “Lảu nự”. Trong lễ ăn hỏi, hai bên gia đình bàn bạc các vấn đề quan trọng liên quan đến đám cưới như lễ vật, ngày giờ đón dâu... Sau khi mọi công việc trên hoàn tất, hai bên gia đình sẽ bắt tay vào chuẩn bị cho lễ cưới.
Cô dâu, chú rể vái lạy ông bà tổ tiên. Ảnh: Nam Sương |
Ông mối "mát tay" chải chiếu cho cô dâu, chú rể để cầu mong hạnh phúc đến với đôi bạn trẻ. Ảnh: Nam Sương |
Cô dâu ngồi trước ngọn đèn trước khi ra thưa chuyện và mời trầu... bố mẹ chồng và họ hàng. Ảnh: Hoàng Tâm |
Lễ cưới của người Nùng diễn ra với nhiều lễ nghi đặc sắc như: Khi đón dâu phải đúng thời gian ước hẹn; đoàn đón dâu của người Nùng thường là 6, 8 hoặc 10 người. Bởi theo quan niệm dân gian của người Nùng, số chẵn là số may mắn (đủ đôi, đủ cặp). Khi xuất hành đến nhà gái, chú rể phải thắp nén hương lên bàn thờ tổ tiên và cúi lạy. Trong lễ đón dâu, ông mối sẽ phải đối đáp bằng lối hát sli với nhà gái để xin rước cô dâu về.
Cô dâu ra thưa chuyện với bố chồng. Ảnh: Hoàng Tâm |
Cô dâu ra thưa chuyện mẹ chồng và người thân. Ảnh: Hoàng Tâm |
Cô dâu cùng "bà đưa", "bà đón" lại ngồi trước ngọn đèn. Ảnh: Nam Sương |
Mọi người nhà cô dâu và chú rể cùng tham gia hỏi thăm nhau, đối đáp những điệu dân ca. Ảnh: Nam Sương |
Tên tự gọi: Nồng.
Nhóm địa phương: Nùng Giang, Nùng Xuồng, Nùng An, Nùng Inh, Nùng Lòi, Nùng Cháo, Nùng Phàn Slình, Nùng Quy Rịn, Nùng Dín...
Dân số: 968.800 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng Tày, tiếng Thái, và nhất là tiếng Choang ở Trung Quốc...
Lịch sử: Người Nùng phần lớn từ Quảng Tây (Trung Quốc) di cư sang cách đây khoảng 200-300 năm.
Hoạt động sản xuất: Người Nùng làm việc rất thành thạo nhưng do cư trú ở những vùng không có điều kiện khai phá ruộng nước cho nên nhiều nơi họ phải sống bằng nương rẫy là chính. Ngoài ngô, lúa họ còn trồng các loại củ, bầu bí, rau xanh...
Họ biết làm nhiều nghề thủ công: dệt, rèn, đúc, đan lát, làm đồ gỗ, làm giấy dó, làm ngói âm dương... Nhiều nghề có truyền thống lâu đời nhưng vẫn là nghề phụ gia đình, thường chỉ làm vào lúc nông nhàn và sản phẩm làm ra phục vụ nhu cầu của gia đình là chính. Hiện nay, một số nghề có xu hướng mai một dần (dệt), một số nghề khác được duy trì và phát triển (rèn). Ở xã Phúc Sen (huyện Quảng Hoà, Cao Bằng) rất nhiều gia đình có lò rèn và hầu như gia đình nào cũng có người biết làm nghề rèn.
Chợ ở vùng người Nùng phát triển. Người ta thường đi chợ phiên để trao đổi mua bán các sản phẩm. Thanh niên, nhất là nhóm Nùng Phàn Slình, thích đi chợ hát giao duyên.
Ăn: Ở nhiều vùng người Nùng ăn ngô là chính. Ngô được xay thành bột để nấu cháo đặc như bánh đúc. Thức ăn thường được chế biến bằng cách rán, xào, nấu, ít khi luộc. Nhiều người kiêng ăn thịt trâu, bò, chó.
Mặc: Y phục truyền thống của người Nùng khá đơn giản, thường làm bằng vải thô tự dệt, nhuộm chàm và hầu như không có thêu thùa trang trí. Nam giới mặc áo cổ đứng, xẻ ngực, có hàng cúc vải. Phụ nữ mặc áo năm thân, cài cúc bên nách phải, thường chỉ dài quá hông.
Ở: Người Nùng cư trú ở các tỉnh Ðông Bắc nước ta, họ thường sống xen kẽ với người Tày. Phần lớn ở nhà sàn. Một số ở nhà đất làm theo kiểu trình tường hoặc xây bằng gạch mộc. Ở ven biên giới trước kia còn có loại nhà làm theo kiểu pháo đài, có lô cốt và lỗ châu mai để chống giặc cướp.
Phương tiện vận chuyển: Các phương thức vận chuyển truyền thống là khiêng, vác, gánh, mang, xách. Hiện nay ở một số địa phương người Nùng sử dụng xe có bánh lốp do các vật kéo để làm phương tiện vận chuyển.
Quan hệ xã hội: Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Nùng đã đạt đến trình độ phát triển như ở người Tày. Ruộng và nương thâm canh đã biến thành tài sản tư hữu, có thể đem bán hay chuyển nhượng. Hình thành các giai cấp: địa chủ và nông dân.
Cưới xin: Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu và khi yêu nhau họ thường trao tặng nhau một số kỷ vật. Các chàng trai tặng các cô gái đòn gánh, giỏ đựng con bông (hắc lì) và giỏ đựng con sợi (cởm lót).Còn các cô gái tặng các chàng trai áo và túi thêu.
Tuy nhiên hôn nhân lại hoàn toàn do bố mẹ quyết định, trên cơ sở hai gia đình có môn đăng hộ đối không và lá số đôi trai gái có hợp nhau hay không. Nhà gái thường thách cưới bằng thịt, gạo, rượu và tiền. Số lượng đồ dẫn cưới càng nhiều thì giá trị của người con gái càng cao. Việc cưới xin gồm nhiều nghi lễ, quan trọng nhất là lễ đưa dâu về nhà chồng. Sau ngày cưới cô dâu vẫn ở nhà bố mẹ đẻ cho đến sắp có con mới về ở hẳn nhà chồng.
Sinh đẻ: Ngoài lễ đặt bàn thờ bà mụ và lễ mừng trẻ đầy tháng ở một số nhóm Nùng còn tổ chức lễ đặt tên cho trẻ khi chúng đến tuổi trưởng thành.
Ma chay: Có nhiều nghi lễ với mục đích chính là đưa hồn người chết về bên kia thế giới.
Nhà mới: Làm nhà mới là một trong nhiều công việc hệ trọng. Vì thế khi làm nhà người ta rất chú ý tới việc chọn đất, xem hướng, chọn ngày dựng nhà và lên nhà mới với ước mong có cuộc sống yên vui, làm ăn phát đạt.
Thờ cúng: Thờ tổ tiên là chính. Bàn thờ đặt ở nơi trang trọng, được trang hoàng đẹp, ở vị trí trung tâm là bức phùng slằn viết bằng chữ Hán cho biết tổ tiên thuộc dòng họ nào. Ngoài ra còn thờ thổ công, Phật bà Quan âm, bà mụ, ma cửa, ma sàn, ma ngoài sàn (phi hang chàn)... và tổ chức cầu cúng khi thiên tai, dịch bệnh... Khác với người Tày, người Nùng tổ chức mừng sinh nhật và không cúng giỗ.
Lễ tết: Người Nùng ăn tết giống như ở người Việt và người Tày.
Lịch: Người Nùng theo âm lịch.
Học: Có chữ nôm Nùng dựa theo chữ Hán, đọc theo tiếng Nùng và chữ Tày - Nùng trên cơ sở chữ cái La-tinh.
Văn nghệ: Sli là hát giao duyên của thanh niên nam nữ dưới hình thức diễn xướng tập thể, thường là đôi nam, đôi nữ hát đối đáp với nhau và được hát theo hai bè.
Người ta thường Sli với nhau trong những ngày hội, ngày lễ, ngày chợ phiên, thậm chí ngay trên tàu, trên xe.
Chơi: Trong các ngày tết, ngày lễ, ngày hội thường có một số trò chơi như tung còn, đánh cầu lông, đánh quay, kéo co...
Theo cema.gov.vn