1. Vị trí địa lý
Lạng Sơn là tỉnh miền núi, nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam; cách thủ đô Hà Nội 154 km đường bộ và 165 km đường sắt.
Phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Đông Bắc giáp Trung Quốc, phía Đông Nam giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Nam giáp tỉnh Bắc Giang, phía Tây Nam giáp tỉnh Thái Nguyên, phía Tây giáp tỉnh Bắc Cạn. Theo chiều Bắc – Nam từ 22,27 - 21,19 độ vĩ bắc; chiều Đông – Tây 106,06 - 107,21 độ kinh đông.
2. Điều kiện tự nhiên
Địa hình
Địa hình Lạng Sơn phổ biến là núi thấp và đồi, ít núi trung bình và không có núi cao. Độ cao trung bình là 252 m so với mực nước biển; Nơi thấp nhất là 20m ở phía Nam huyện Hữu Lũng, trên thung lũng sông Thương; Nơi cao nhất là đỉnh Phia Mè (thuộc khối núi Mẫu Sơn) cao 1.541m so với mặt biển.
Hướng địa hình rất đa dạng và phức tạp: Hướng tây bắc – đông nam thể hiện ở máng trũng Thất Khê – Lộc Bình, trên đó có thung lũng các sông Bắc Khê, Kỳ Cùng và Tiên Yên (Quảng Ninh) và dãy hồ Đệ Tam đã được lấp đầy trầm tích Đệ Tam và Đệ Tứ, tạo thành các đồng bằng giữa núi có giá trị đối với ngành nông nghiệp của tỉnh như Thất Khê, Na Dương, Bản Ngà; Hướng đông bắc – tây nam thể hiện ở hướng núi thuộc các huyện Hữu Lũng, Bắc Sơn, Chi Lăng, Văn Quan và phần lớn huyện Văn Lãng, hướng này cũng thấy ở núi đồi huyện Cao Lộc (các xã Lộc Yên, Thanh Lòa và Thạch Đạn); Hướng bắc – nam thể hiện ở hướng núi thuộc các huyện Tràng Định, Bình Gia và phần phía tây huyện Văn Lãng; Hướng tây – đông thể hiện ở hướng của quần sơn Mẫu Sơn với khoảng 80 ngọn núi.
Đất đai
Theo thống kê (10/1995), diện tích đất tự nhiên là 818.725 ha, trong đó: đất nông nghiệp là 64.630,61 ha chiếm 7,59%; đất lâm nghiệp có rừng (rừng tự nhiên và rừng trồng) là 172.635,01 ha chiếm 21,08%; đất chuyên dùng là 10.787 ha, chiếm 1,33%; đất ở là 4.611,48 ha, chiếm 0,56%; đất chưa sử dụng và các loại đất khác là 565.969,7 ha chiếm 69,13%. Đất đai Lạng Sơn được chia thành 7 vùng với 16 tiểu vùng địa lý thổ nhưỡng gồm 43 loại đất khác nhau phù hợp với nhiều loại cây trồng khác nhau.
Khoáng sản
Trong địa phận tỉnh Lạng Sơn, nhóm khoáng sản kim loại gồm có kim loại đen (sắt, măng gan), kim loại màu (nhôm, péc mi sớm, quặng bô xít, quặng alít, đồng, chì, kẽm, đa kim), kim loại quý (vàng) và kim loại hiếm (thiếc, môlípđen, vananđi, thủy ngân); khoáng sản phi kim loại gồm có khoáng sản nhiên liệu (than nâu, than bùn); khoáng sản dùng làm nguyên liệu áp quang và áp điện (thạch anh kỹ thuật); khoáng sản dùng làm nguyên liệu và phân bón; khoáng sản dùng làm vật liệu xây dựng.
Khí hậu
Lạng Sơn mang tính điển hình của khí hậu miền Bắc Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình từ 17 – 22 độ C, có tháng lạnh nhất có thể giảm xuống 50 độ C, có lúc 0 độ C hoặc dưới 0 độ C. Nằm ở phần cực bắc của đới vĩ độ thấp gần giáp chí tuyến bắc, giữa các vĩ độ 21,19 và 22,27 vĩ bắc, và giữa 106,06 và 107,21 độ kinh đông nên Lạng Sơn có nguồn bức xạ phong phú, cho phép các loại cây trồng vật nuôi bốn mùa sinh sôi nảy nở; tuy nhiên Lạng Sơn lại nằm ở cửa ngõ đón gió mùa mùa đông, nơi có gió mùa cực đới đến sớm nhất và kết thúc muộn nhất ở miền Bắc nước ta nên có mùa đông lạnh.
Độ ẩm trung bình năm của không khí ở Lạng Sơn phổ biến là từ 80 – 85%, thấp hơn nhiều vùng khác ở nước ta. Ít có sự chênh lệch về độ ẩm tương đối giữa các vùng và giữa các độ cao trong tỉnh.
Lượng mưa
Lạng Sơn nằm ở khu vực Đông Bắc, ít mưa của vùng khí hậu miền Bắc; lượng mưa trung bình năm là 1.200 – 1.600 mm. Nơi duy nhất có lượng mưa trên 1.600mm là vùng núi cao Mẫu Sơn (2.589mm); tại Lạng Sơn có Na Sầm (1.118 mm) và Đồng Đăng (1.100mm) là những trung tâm khô hạn của miền Bắc.
Sông ngòi
Chịu chi phối của khí hậu nhiệt đới gió mùa, lại nằm trong vùng đất dốc thuộc khu miền núi Đông Bắc, Lạng Sơn có mạng lưới sông ngòi khá phong phú. Mật độ mạng lưới sông ở đây dao động trung bình từ 0,6 đến 1,2 km/km2. So với mật độ sông suối trung bình của cả nước là 0,6 km/km2 thì mật độ sông suối của Lạng Sơn thuộc loại từ trung bình đến khá dày. Lạng Sơn có 5 sông chính độc lập, đó là sông Kỳ Cùng, Sông Thương, Sông Lục Nam, sông Tiên Yên- Ba Chẽ (hay Nậm Luổi – Đồng Quy) và sông Nà Lang.
3. Dân cư
Theo kết quả tổng quan kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn năm 2012 của Cục Thống kê tỉnh, ước tính dân số của tỉnh Lạng Sơn có khoảng 745 nghìn người. Trong đó nam là 372 nghìn người, chiếm 49,95% tổng dân số cả tỉnh; nữ là 373 nghìn người chiếm 50,05 %. Dân số khu vực thành thị 143,3 nghìn người chiếm 19,22 % tổng dân số; dân số khu vực nông thôn 602,1 nghìn người chiếm 80,7%.
Lạng Sơn là tỉnh miền núi, nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam; cách thủ đô Hà Nội 154 km đường bộ và 165 km đường sắt.
Phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Đông Bắc giáp Trung Quốc, phía Đông Nam giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Nam giáp tỉnh Bắc Giang, phía Tây Nam giáp tỉnh Thái Nguyên, phía Tây giáp tỉnh Bắc Cạn. Theo chiều Bắc – Nam từ 22,27 - 21,19 độ vĩ bắc; chiều Đông – Tây 106,06 - 107,21 độ kinh đông.
2. Điều kiện tự nhiên
Địa hình
Địa hình Lạng Sơn phổ biến là núi thấp và đồi, ít núi trung bình và không có núi cao. Độ cao trung bình là 252 m so với mực nước biển; Nơi thấp nhất là 20m ở phía Nam huyện Hữu Lũng, trên thung lũng sông Thương; Nơi cao nhất là đỉnh Phia Mè (thuộc khối núi Mẫu Sơn) cao 1.541m so với mặt biển.
Hướng địa hình rất đa dạng và phức tạp: Hướng tây bắc – đông nam thể hiện ở máng trũng Thất Khê – Lộc Bình, trên đó có thung lũng các sông Bắc Khê, Kỳ Cùng và Tiên Yên (Quảng Ninh) và dãy hồ Đệ Tam đã được lấp đầy trầm tích Đệ Tam và Đệ Tứ, tạo thành các đồng bằng giữa núi có giá trị đối với ngành nông nghiệp của tỉnh như Thất Khê, Na Dương, Bản Ngà; Hướng đông bắc – tây nam thể hiện ở hướng núi thuộc các huyện Hữu Lũng, Bắc Sơn, Chi Lăng, Văn Quan và phần lớn huyện Văn Lãng, hướng này cũng thấy ở núi đồi huyện Cao Lộc (các xã Lộc Yên, Thanh Lòa và Thạch Đạn); Hướng bắc – nam thể hiện ở hướng núi thuộc các huyện Tràng Định, Bình Gia và phần phía tây huyện Văn Lãng; Hướng tây – đông thể hiện ở hướng của quần sơn Mẫu Sơn với khoảng 80 ngọn núi.
Đất đai
Theo thống kê (10/1995), diện tích đất tự nhiên là 818.725 ha, trong đó: đất nông nghiệp là 64.630,61 ha chiếm 7,59%; đất lâm nghiệp có rừng (rừng tự nhiên và rừng trồng) là 172.635,01 ha chiếm 21,08%; đất chuyên dùng là 10.787 ha, chiếm 1,33%; đất ở là 4.611,48 ha, chiếm 0,56%; đất chưa sử dụng và các loại đất khác là 565.969,7 ha chiếm 69,13%. Đất đai Lạng Sơn được chia thành 7 vùng với 16 tiểu vùng địa lý thổ nhưỡng gồm 43 loại đất khác nhau phù hợp với nhiều loại cây trồng khác nhau.
Khoáng sản
Trong địa phận tỉnh Lạng Sơn, nhóm khoáng sản kim loại gồm có kim loại đen (sắt, măng gan), kim loại màu (nhôm, péc mi sớm, quặng bô xít, quặng alít, đồng, chì, kẽm, đa kim), kim loại quý (vàng) và kim loại hiếm (thiếc, môlípđen, vananđi, thủy ngân); khoáng sản phi kim loại gồm có khoáng sản nhiên liệu (than nâu, than bùn); khoáng sản dùng làm nguyên liệu áp quang và áp điện (thạch anh kỹ thuật); khoáng sản dùng làm nguyên liệu và phân bón; khoáng sản dùng làm vật liệu xây dựng.
Khí hậu
Lạng Sơn mang tính điển hình của khí hậu miền Bắc Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình từ 17 – 22 độ C, có tháng lạnh nhất có thể giảm xuống 50 độ C, có lúc 0 độ C hoặc dưới 0 độ C. Nằm ở phần cực bắc của đới vĩ độ thấp gần giáp chí tuyến bắc, giữa các vĩ độ 21,19 và 22,27 vĩ bắc, và giữa 106,06 và 107,21 độ kinh đông nên Lạng Sơn có nguồn bức xạ phong phú, cho phép các loại cây trồng vật nuôi bốn mùa sinh sôi nảy nở; tuy nhiên Lạng Sơn lại nằm ở cửa ngõ đón gió mùa mùa đông, nơi có gió mùa cực đới đến sớm nhất và kết thúc muộn nhất ở miền Bắc nước ta nên có mùa đông lạnh.
Độ ẩm trung bình năm của không khí ở Lạng Sơn phổ biến là từ 80 – 85%, thấp hơn nhiều vùng khác ở nước ta. Ít có sự chênh lệch về độ ẩm tương đối giữa các vùng và giữa các độ cao trong tỉnh.
Lượng mưa
Lạng Sơn nằm ở khu vực Đông Bắc, ít mưa của vùng khí hậu miền Bắc; lượng mưa trung bình năm là 1.200 – 1.600 mm. Nơi duy nhất có lượng mưa trên 1.600mm là vùng núi cao Mẫu Sơn (2.589mm); tại Lạng Sơn có Na Sầm (1.118 mm) và Đồng Đăng (1.100mm) là những trung tâm khô hạn của miền Bắc.
Sông ngòi
Chịu chi phối của khí hậu nhiệt đới gió mùa, lại nằm trong vùng đất dốc thuộc khu miền núi Đông Bắc, Lạng Sơn có mạng lưới sông ngòi khá phong phú. Mật độ mạng lưới sông ở đây dao động trung bình từ 0,6 đến 1,2 km/km2. So với mật độ sông suối trung bình của cả nước là 0,6 km/km2 thì mật độ sông suối của Lạng Sơn thuộc loại từ trung bình đến khá dày. Lạng Sơn có 5 sông chính độc lập, đó là sông Kỳ Cùng, Sông Thương, Sông Lục Nam, sông Tiên Yên- Ba Chẽ (hay Nậm Luổi – Đồng Quy) và sông Nà Lang.
3. Dân cư
Theo kết quả tổng quan kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn năm 2012 của Cục Thống kê tỉnh, ước tính dân số của tỉnh Lạng Sơn có khoảng 745 nghìn người. Trong đó nam là 372 nghìn người, chiếm 49,95% tổng dân số cả tỉnh; nữ là 373 nghìn người chiếm 50,05 %. Dân số khu vực thành thị 143,3 nghìn người chiếm 19,22 % tổng dân số; dân số khu vực nông thôn 602,1 nghìn người chiếm 80,7%.
Giống như các tỉnh miền núi phía Bắc, Lạng Sơn là tỉnh có các dân tộc ít người chiếm số đông (84,74% tổng số dân của tỉnh). Là nơi chung sống của nhiều dân tộc anh em, trong đó người Nùng chiếm 43,9%, người Tày 35,3%, người Kinh chiếm 15,3%, tập trung phần lớn ở các thị xã, thị trấn; người Dao chiếm 3,5%, dân tộc Hoa, Sán Chay, Mông và các dân tộc khác chiếm khoảng 1,4%.
4. Lịch sử hình thành và phát triển
Thế kỷ thứ VII trước Công nguyên, nước Văn Lang của các Vua Hùng được thành lập - Lạng Sơn trở thành vùng đất của bộ Lục Hải. Từ thế kỷ IX đến thế kỷ X, Lạng Sơn trở thành đơn vị hành chính của nước Đại Cồ Việt, sau đổi tên thành Đại Việt.
Lạng Sơn các thế kỷ đầu độc lập (thế kỷ IX – thế kỷ XIV)
Trong thời gian dài của thời kỳ độc lập, với tên gọi Lạng Châu, rồi Lạng Giang, Lạng Sơn là một vùng đất quan trọng của nước Đại Cồ Việt và Đại Việt, nơi qua lại trao đổi của cư dân, sứ bộ hai nước.
Trong ba lần đánh bại quân xâm lược Nguyên – Mông, có hai lần quân Nguyên – Mông bị tiêu diệt tại Lạng Sơn. Đất Lạng Sơn, vùng biên cương phía Đông Bắc của tổ quốc, góp phần quan trọng vào thắng lợi của quân dân Đại Việt (thế kỷ XIII).
Lạng Sơn từ thời Hậu Lê đến đầu Nguyễn (Thế kỷ XV – đầu thế kỷ XIX)
Năm 1406, khi quân Minh sang xâm lược nước ta, Lạng Sơn lại góp phần quan trọng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn: Đầu năm 1426, sau khi giải phóng Thanh hóa, nghĩa quân Lam Sơn tiến quân ra vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, kết hợp với các phong trào yêu nước tại các địa phương thống nhất trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Ải Chi Lăng vốn được xem là cửa ải xung yếu nhất, trong kháng chiến chống quân Tống đời Lý và chống quân Nguyên - Mông đời Trần lại được chọn làm trận địa đánh đòn phủ đầu hết sức bất ngờ vào viện binh, làm hơn 100 kỵ binh của địch bị tiêu diệt, Liễu Thăng bị trúng lao chết bên sườn núi Mã Yên (ngày 20/9 năm Đinh Mùi - tức ngày 10/10/1427). Chiến thắng Chi Lăng có ý nghĩa quyết định đến cục diện cuộc chiến, góp phần quan trọng kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Lạng Sơn từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII
Đầu năm 1428, những tên lính Minh cuối cùng rút khỏi đất nước ta, khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, nước Đại Việt được khôi phục, đất nước trở lại thanh bình, nhân dân khắp nơi trở về xây dựng quê hương. Cuộc sống của người dân Lạng Sơn tương đối yên bình, đời sống văn hóa, tinh thần của cư dân ngày càng được cải thiện, biên cương quan ải được củng cố, đất đai ruộng đồng được khai phá thêm, nhiều thắng cảnh đẹp ở Lạng Sơn như động Tam Thanh, Nhị Thanh được tôn tạo lại. Bước sang thế kỷ thứ XVI, cùng với sự suy vong của nhà Lê Sơ, Lạng Sơn rơi vào tình trạng thường xuyên bị náo động.
Từ năm 1527, Nhà Mạc thành lập, Lạng Sơn tạm yên trở lại, nhưng vẫn còn một số phụ đạo, thổ tù ủng hộ nhà Lê, không theo Mạc. Chiến tranh Nam – Bắc triều, Lạng Sơn lại chịu cảnh binh lửa.
Lạng Sơn từ giữa thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XIX
Từ giữa thế kỷ XIX, tình hình kinh tế - xã hội Lạng Sơn trở nên khó khăn. Năm 1854, Lạng Sơn bị bão lụt lớn, mất mùa, nạn đói xảy ra. Triều đình phải vận động các tỉnh láng giềng cứu giúp. Tình hình kéo dài đến khi thực dân pháp tiến đánh Lạng Sơn (1885).
Quá trình chuyển biến từ phong trào đấu tranh yêu nước sang phong trào đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ năm 1891, thực dân Pháp tiến hành thiết lập chính quyền đô hộ, chúng đã thực hiện nhiều chính sách phản động về chính trị và kinh tế, khiến đời sống của nhân dân rất cực khổ bởi gánh nặng sưu thuế.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), thực hiện cuộc vận động và xây dựng phong trào quần chúng cách mạng ở các tỉnh miền núi, biên giới như Cao Bằng, Lạng Sơn với mục đích tạo địa bàn hoạt động thuận lợi cho Đảng ta, Chi bộ Đảng cộng sản được thành lập với nhiệm vụ chỉ đạo cách mạng vùng núi biên giới Cao – Bắc – Lạng.
Từ giữa năm 1930, Chi bộ đã hướng dẫn trọng tâm vào việc gây dựng tổ chức quần chúng cách mạng ở hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng. Đồng chí Hoàng Văn Thụ được Chi bộ phân công gây dựng phong trào quần chúng cách mạng ở Lạng Sơn.
Sự ra đời của Chi Bộ Đảng đầu tiên và phong trào đấu tranh cách mạng giai đoạn 1933 – 1940
Trước sự tiến triển không ngừng của phong trào cách mạng quần chúng, Chi bộ Đảng vùng biên giới đã quyết định thành lập cơ sở Đảng ở Văn Uyên để làm nòng cốt chỉ đạo phong trào trước mắt và lâu dài. Được sự ủy nhiệm của Đảng, giữa năm 1933, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã tới Thuỵ Hùng, tổ chức kết nạp đảng viên, thành lập Chi bộ Đảng do bản thân đồng chí trực tiếp làm bí thư. Đây là Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở Văn Uyên và cũng là Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của Đảng bộ Lạng Sơn sau này.
Chấp hành chủ trương của Xứ ủy Bắc Kỳ về việc tiếp tục củng cố, phát triển phong trào cách mạng ở vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là vùng núi, biên giới, giữa năm 1936, đồng chí Hoàng Văn Thụ - cán bộ đặc trách chỉ đạo vùng biên giới Cao – Bắc – Lạng đã trực tiếp về Bắc Sơn để giác ngộ, tổ chức các cơ sở quần chúng cách mạng. Ngày 25/9/1936, Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở Bắc Sơn được thành lập tại thôn Mỏ Tát, xã Vũ Lăng. Được ủy nhiệm của Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã tới Phi Mỹ, trực tiếp giác ngộ, tích cực bồi dưỡng quần chúng, kết nạp đảng viên mới, thành lập Chi bộ Đảng cộng sản để làm nòng cốt chỉ đạo phong trào. Ngày 11/4/1938 với sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Hoàng Văn Thụ, Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở Tràng Định được thành lập.
Ngày 22/9/1940, quân Nhật đánh vào Lạng Sơn. Sau vài trận chống cự yếu ớt, quân Pháp rút chạy tán loạn qua Bắc Sơn về Thái Nguyên. Chính quyền địch ở những vùng này bị tan rã. Nắm lấy thời cơ, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ địa phương, nhân dân Bắc Sơn đã vùng lên tước vũ khí của tàn binh Pháp, tự vũ trang để đánh Pháp, đuổi Nhật.
Tại Nông Lục (Hưng Vũ), sáng ngày 27/9/1940, một số đồng chí sau khi thoát khỏi nhà tù Lạng Sơn đã về họp với các Chi bộ Đảng ở Hưng Vũ, Bắc Sơn... với chủ trương lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngay chiều ngày 27/9/1940, nhân dân các xã Bắc Sơn, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Trấn Yên với trang bị súng kíp, giáo mác, gậy gộc chia làm ba cánh tiến đánh đồn Mỏ Nhài. Tối cùng ngày, cuộc tấn công bắt đầu. Khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ. Quân khởi nghĩa chiếm được châu lỵ Bắc Sơn, chính quyền địch tan rã. Do chưa có sự chuẩn bị chu đáo, nên chúng ta chưa thành lập được chính quyền cách mạng và quân ta chưa chuẩn bị được lực lượng đối phó nên đã bị quân Pháp đàn áp, chiếm lại châu lỵ. Tuy nhiên, quân địch không thể dập tắt được tinh thần chiến đấu của nhân dân. Phong trào cách mạng và khí thế Khởi nghĩa Bắc Sơn vẫn duy trì.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 (1941- 1945)
Từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945, dưới sự tăng cường chỉ đạo của Tổng bộ Việt Minh, Liên Tỉnh ủy Cao – Bắc – Lạng và sự vận động, tổ chức tích cực của cứu quốc quân từ căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, các đội vũ trang tuyên truyền chiến đấu đã lần lượt ra đời ở nhiều địa phương trong tỉnh như Hội Hoan (Thoát Lãng); Thụy Hùng ( Văn Uyên); Chí Minh (Tràng Định).
Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1945, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của các chi bộ Đảng, các ban Việt Minh ở các châu Bắc Sơn, Bình Gia, Hữu Lũng, Bằng Mạc, Tràng Định, Thoát Lãng, Điềm He đã phát động quần chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền.
Ngày 19/8/1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà Nội. Trước đó, ngày 19/8 tại Đồng Mỏ (Ôn Châu), quần chúng cách mạng đã làm chủ châu lỵ, Ôn Châu giải phóng. Cùng ngày lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng đã nổi dậy làm chủ Phố Mẹt, châu lỵ Hữu Lũng. Ngày 21/8, lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng đã bao vây, tước vũ khí Nhật, làm chủ Thất Khê, giải phóng Tràng Định. Tiếp đó là giải phóng Thoát Lãng ngày 22/8; ngày 25/8 lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng lân cận đã tiến vào thị xã, bao vây dinh tỉnh trưởng bù nhìn, buộc địch đầu hàng.
Kháng chiến chống pháp (từ 1946 – 1954)
Thực hiện Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1946, Chỉ thị “Toàn quốc kháng chiến” của Trung ương Đảng, trong đó đề ra đường lối chỉ đạo kháng chiến: “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh”, quân và dân các dân tộc Lạng Sơn đã anh dũng bước vào những trận chiến đấu mới chống quân thù.
Cơ quan lãnh đạo của tỉnh đã rút từ căn cứ Ba Xã (Điềm He) về Kéo Coong (Bình Gia) để kịp thời đối phó với kế hoạch quân sự của địch ngay trên địa bàn Lạng Sơn. Đến cuối năm 1947, các căn cứ du kích của tỉnh bắt đầu được xây dựng ở Chi Lăng (Lộc Bình); Ba Sơn (Cao Lộc) hình thành vành đai chiến tranh du kích trong khu vực khống chế của địch.
Ngày 30/10/1947, lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với quân chủ lực phục kích địch ở Bông Lau, tiêu diệt 94 tên Pháp, phá hủy và làm hỏng 27 xe quân sự của địch. Chiến thắng Bông Lau đã mở đầu cho hàng loạt những trận đánh oanh liệt của quân và dân ta trên đường số 4. Phát huy tinh thần chiến thắng Bông Lau, từ cuối năm 1947, các lực lượng vũ trang đã liên tiếp tiến công giành nhiều thắng lợi lớn ở Đèo Khách, Bản Nằm, Lũng Vài góp phần tiêu hao sinh lực và chia cắt kế hoạch tiến công lớn của địch.
Giữa năm 1948, phối hợp nhịp nhàng với quân và dân vùng tự do, quân và dân ở những vùng tuyến trước dọc đường số 4 Đình Lập, Lộc Bình, Cao Lộc , Văn Uyên, Thoát Lãng, Tràng Định đã thường xuyên tiến công địch. Thực hiện phong trào thi đua “Cướp súng giặc giết giặc” do Tỉnh ủy phát động và khẩu hiệu “Làm chủ đường số 4 đi đến cắt đứt đường số 4”, ngày 12/9/1948, quân ta tiêu diệt đồn Nà Cáy mà không tốn một viên đạn.
Cùng với phương án tác chiến binh vận, ngày 16/9/1948, lực lượng du kích của ta đã tiến công đồn Lũng Vài, tiêu diệt nhiều tên địch và thu nhiều vũ khí. Trên đà thắng lợi đã liên tiếp tập kích các đồn Đồng Đăng, Lũng Phầy... làm cho địch suy yếu.
Từ đầu năm 1949, các lực lượng vũ trang đã liên tiếp tiến công tiêu diệt địch, bước sang giai đoạn tổng phản công, đánh bại hoàn toàn quân địch.
Tháng 6/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch biên giới do đồng chí Võ Nguyên Giáp - Ủy viên thường vụ Trung ương Đảng làm chỉ huy trưởng, kiêm bí thư. Ngày 16/9/1950, quân ta tiến công đồn Đông Khê. Sau hai ngày đêm chiến đấu quyết liệt, quân ta giành thắng lợi. Trên đà thắng lợi, các lực lượng chủ lực có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang địa phương đã liên tiếp tiến công tiêu diệt địch trên toàn tuyến đường số 4.
Từ ngày 03 đến ngày 08/10/1950, quân ta đã đánh tan 2 binh đoàn chủ lực của Pháp, tiêu diệt cánh quân cứu viện của chúng từ Hà Nội lên. Ngày 10/10/1950, địch rút khỏi thị trấn Thất Khê, huyện Tràng Định giải phóng. Ngày 13/10/1950, địch rút khỏi Na Sầm, Đồng Đăng, hai huyện Văn Uyên, Thoát Lãng giải phóng. Ngày 17/10/1950, địch rút khỏi thị xã Lạng Sơn, Lộc Bình, quân ta vào tiếp quản thị xã. Ngày 22/10/1950 địch rút khỏi An Châu (Đình Lập), chấm dứt sự chiếm đóng của thực dân Pháp trên đất Lạng Sơn.
Lạng Sơn sau chiến thắng Điện Biên phủ năm 1954:
Đẩy mạnh cải cách dân chủ, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho phát triển kinh tế- xã hội (1955 -1960); Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1961 - 1965).
Năm 1961, trước những thất bại liên tiếp trong “chiến tranh đặc biệt” ở chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ điên cuồng đánh phá miền Bắc. Trong những năm tháng đối đầu với nhiều đợt bắn phá ác liệt của giặc Mỹ, bằng nhiều hành động thiết thực và lòng dũng cảm cao độ, các đội thanh niên xung phong và quân chủ lực đã góp công sức không nhỏ vào thành tích của quân và dân các dân tộc trong tỉnh.
Vừa củng cố, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, vừa tiến hành chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ (1966 – 1972).
Trong giai đoạn này Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn chủ trương đẩy mạnh khôi phục và phát triển kinh tế, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng – cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học, kỹ thuật và cách mạng tư tưởng. Đẩy mạnh sản xuất nông - lâm - nghiệp, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm để phát triển sản xuất công nghiệp địa phương và các ngành kinh tế khác. Đến năm 1975, sản lượng lương thực của tỉnh tăng 7% so với năm 1972, phong trào thâm canh, xen canh, tăng vụ lúa, hoa màu được nhân rộng và phát triển tới những vùng cao hẻo lánh, xuất hiện nhiều hợp tác xã có phong trào chăn nuôi trâu, bò.
Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, năm 1976, hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng sáp nhập thành tỉnh Cao Lạng. Thực hiện Nghị Quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Cao Lạng lần thứ nhất, đến cuối năm 1978, tỉnh Cao Lạng đã đạt một số thành tích như GDP của tỉnh đạt 383 triệu đồng, trong đó giá trị sản lượng nông – lâm – nghiệp đạt 120 triệu đồng, sản lượng lương thực đạt 114 nghìn tấn.
Tháng 12/1978, tỉnh Cao Lạng lại tách ra thành hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng.
Theo langson.gov.vn