Nét văn hóa truyền thống của đồng bào Vân Kiều ở miền tây Quảng Trị được các nghệ nhân gìn giữ, bảo tồn |
Trong đời sống sinh hoạt của người Vân Kiều có rất nhiều làn điệu dân ca, mỗi loại có một cách thể hiện riêng và phù hợp với từng đối tượng, hoàn cảnh cụ thể, hát xà nớt là một trong những làn điệu dân ca truyền thống của người Vân Kiều. Không ai biết lịch sử của làn điệu dân ca này từ đâu mà chỉ biết có từ lâu đời và được kế thừa theo lối truyền miệng từ đời này sang đời khác, được các thế hệ ngườiVân Kiều kế thừa, gìn giữ và phát huy. Cũng như các làn điệu dân ca khác, hát xà nớt là làn điệu dân ca hát theo lối ví von, có cung bậc và giai điệu; một lối hát đối đáp ứng khẩu qua lại với nhau. Người hát sẽ mượn thiên nhiên, con người, diễn biến sự vật, hiện tượng diễn ra hằng ngày để hát và giải bày tâm tư, tình cảm của mình.
Khác với các làn điệu dân ca khác, hát xà nớt của người Vân Kiều sử dụng được mọi lúc, mọi nơi, trong những ngày lễ hội hay những đêm hẹn hò của những lứa đôi đến tuổi cập kê. Lối hát này dành cho mọi lứa tuổi, già trẻ gái trai. Tuy nhiên để hát được làn điệu xà nớt thì rất khó bởi đòi hỏi sự quy tụ của nhiều yếu tố khác nhau, không phải ai cũng hát được. Để hát được làn điệu dân ca này mọi ngưòi phải tập luyện rất công phu. Cái khó là phải có chất giọng và biết luyện giọng hát, luyến láy giọng với âm vực cao, thấp khác nhau; lúc trầm bổng như ngọn gió thổi qua rừng, lúc sâu lắng như nước suối chảy qua kẻ đá và đặc biệt phải biết sử dụng nhạc cụ phù hợp. Nhạc cụ sử dụng trong hát xà nớt là sáo khui, cập a chung hay còn gọi là đàn 3 dây, khèn và một số dụng cụ khác. Điều đặc biệt nữa là nó còn phụ thuộc vào hoàn cảnh thực tại. Trong các dịp lễ hội như ăn mừng cơm mới, lễ tết hay lễ cưới hỏi... để hát xà nớt, người hát trước hết phải xin phép già làng, trưởng bản, dòng tộc và gia đình. Trong lúc mọi người đang ăn uống vui vẻ, được sự cho phép của già làng, trưởng bản, người hát sẽ xướng một câu thể hiện niềm vui của mình đang tham dự ở đây. Người tiếp lời sẽ chú ý nghe lời, âm điệu và chuẩn bị câu từ để đối đáp biểu hiện sự đồng tình về tình cảm, niềm vui, từ đó tạo không khí vui vẻ, sôi động cho lễ hội này. Hai người hát với nhau cùng giải bày nỗi niềm từ quá khứ đến hiện tại, kể với nhau về tháng ngày thơ ấu, trải qua bao thăng trầm với những kỉ niệm vui buồn; họ kể về thời gian khó khăn đã cùng nhau vun đắp, đùm bọc, che chở giữa núi rừng ... Đây là làn điệu dân ca thể hiện rất rõ nỗi niềm của mỗi con người nơi đây nên khi nghe hát xa nớt, ai nấy đều xúc động bởi lời hát thiết tha, gần gũi vô cùng:
"Xưa kia bản làng ta cực khổ, ăn uống không đủ no. Được Đảng, Nhà nước chăm lo chúng ta đoàn kết xây dựng, sản xuất. Bây giờ mỗi người đã có cơm ăn, con cái học hành, bản làng ngày càng phát triển…"
Hay khi hát về sự giao cảm giữa con người đối với thiên nhiên:
'Cây khui, cây lồ ô nằm giữa núi rừng, mưa gió
Hôm nay may mắn chọn cây về làm đàn khui
Và nó được nâng niu vuốt ve…"
Hát xà nớt còn là phương tiện, là sợi dây liên kết nối tình cảm lứa đôi. Đối với trai gái Vân Kiều khi đến tuổi dựng vợ gả chồng, họ thường đi sim. Trong những đêm đi sim , hát xà nớt được xem là một trong những “kênh” thông tin hữu hiệu để họ tìm ra bạn đời của mình. Đôi lứa tìm hiểu nhau qua lời hát đối đáp giữa trai và gái để hiểu biết và chia sẻ tình cảm của nhau, từ đó có cơ hội gắn kết nên duyên vợ chồng.
Có thể nói hát xà nớt là một làn điệu dân ca truyền miệng mang đậm bản sắc văn hóa Vân Kiều; thể hiện sự thông minh, tài ứng xử nhạy bén của con người trong việc mượn cảnh vật thiên nhiên để nói lên tình cảm, khát vọng yêu thương, chinh phục thiên nhiên trong cuộc sống thường ngày của con người. Chính những lời ca, tiếng hát cất lên từ làn điệu dân ca này đã góp phần thắt chặt mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, con người với con người. Tất cả tạo nên sức mạnh tinh thần gắn kết cộng đồng góp phần bảo vệ và xây dựng quê hương giàu đẹp.
Tên tự gọi: Có người cho Bru là tên tự gọi
Tên gọi khác: Bru, Vân Kiều.
Nhóm địa phương: Vân Kiều, Trì, Khùa, Ma Coong.
Dân số: 74.506 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), gần gũi với tiếng Tà Ôi, Cơ Tu. Chữ viết mới hình thành theo cách phiên âm bằng chữ cái Latinh. Giữa các nhóm có một số từ vựng không giống nhau.
Lịch sử: Họ thuộc số dân cư được coi là có nguồn gốc lâu đời nhất ở vùng Trường Sơn.
Hoạt động sản xuất: Canh tác rẫy, trồng lúa là chính; nông cụ đơn giản: rìu, dao quắm, gậy trỉa, cái nạo cỏ có lưỡi cong. Cách thức sản xuất: phát rừng, đốt, rồi chọc lỗ gieo hạt giống, làm cỏ, tuốt lúa bằng tay; đa canh - xen canh trên từng đám rẫy kéo dài hàng năm từ tháng 3 đến tháng 10. Ngoài trồng các giống lúa tẻ, nếp, còn trồng sắn, bầu, chuối, cà, dứa, khoai mía v.v... Rừng và sông suối cung cấp nhiều thức ăn cùng nguồn lợi khác. Chăn nuôi trâu (về sau có cả bò), lợn, gà, chó là phổ biến.
Nghề thủ công không phát triển. Quan hệ trao đổi hàng hoá chủ yếu với người Việt và người Lào.
Ăn: Người Bru-Vân Kiều thích các món nướng. Canh thường nấu lẫn rau với gạo và cá hoặc ếch nhái. Họ ăn cơm tẻ thường ngày; khi lễ hội, cơm nếp nấu trong ống tre tươi; quen ăn bốc, uống nước lã, rượu cần (nay rượu cất là thông dụng). Nam nữ đều hút thuốc lá, tẩu bằng đất nung hoặc làm từ cây le.
Mặc: Theo phong tục, nam đóng khố, nữ mặc váy, còn áo không có tay, mặc chui đầu. Vải chủ yếu mua ở Lào. Y phục kiểu người Việt thời nay đã trở thành phổ biến, tập quán mặc váy vẫn được bảo lưu. Trước kia thường dùng vỏ cây rừng đập dập lấy xơ để che thân. Ðồ trang sức thường đeo là các loại vòng ở cổ, tay, khuyên tai. Xưa đàn ông, đàn bà đều búi tóc, riêng thanh nữ búi lệch tóc về phía bên trái, khi đã có chồng tóc được búi trên đỉnh đầu.
Ở: Người Bru-Vân Kiều sống ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên thuộc miền tây các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế, Quảng Bình. Mỗi làng là một điểm cư trú quần tụ. Mỗi gia đình có nhà riêng, ở nhà sàn, bếp lửa bố trí ngay trên sàn nhà, kiêng nằm ngang sàn. Nhóm Trì, Khùa, Ma Coong nhà thường ngăn thành buồng làm chỗ ngủ riêng cho vợ chồng gia chủ, cho bố mẹ già (nếu có), cho con đã lớn.
Phương tiện vận chuyển: Người Bru-Vân Kiều dùng các loại gùi, đeo gùi sau lưng, 2 quai gùi quàng vào đôi vai. Chiếc gùi gắn bó khăng khít với mỗi người như hình với bóng, là vật dụng vận tải đa năng.
Quan hệ xã hội: Dân làng thuộc các dòng họ khác nhau, cùng sinh sống trên một địa vực, trong đó đất trồng trọt thuộc về từng gia đình, kể cả khi bỏ hoá. Người "già làng" có vai trò quan trọng đối với đời sống của làng. Sự giàu-nghèo hình thành, nhưng hầu hết các hộ trong làng tương đối khác biệt nhau. Tài sản được xác định bằng chiêng, cồng, ché, nồi đồng, trâu v.v...
Hiện tượng người bóc lột người không phổ biến.
Cưới xin: Cô dâu về ở đằng nhà chồng, nhà trai tổ chức cưới vợ cho con và phải biếu đồ sính lễ cho nhà gái, trong đó có thanh kiếm và thường cả chiếc nồi đồng nữa. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng còn phải làm "lễ cưới" lần thứ 2 khi có điều kiện về kinh tế, gọi là lễ Khơi, để người vợ chính thức được coi là thành viên dòng họ nhà chồng.
Theo tục lệ, việc con trai cô lấy con gái cậu được khuyến khích, việc kết hôn giữa vợ goá với anh hoặc em chồng cũng như giữa chồng goá với chị hoặc em vợ đều được chấp thuận và khi dòng họ A đã gả con gái cho dòng họ B thì dòng họ B không gả con gái cho dòng họ A nữa.
Sinh đẻ: Phụ nữ khi mang thai kiêng ăn thịt các con vật sa bẫy, không bước qua cây nằm ngang đường v.v... Họ đẻ con tại nhà, có bà mụ vườn đỡ đẻ. Trẻ sơ sinh được đặt tên sau vai ba tháng, phải tránh trùng với tên của người đã khuất trong dòng họ, nhưng thường các tên trong nhà được đặt cùng vần nhau.
Ma chay: Tử thi ở nhóm Vân Kiều được đặt năm ngang sàn nhà, chân hướng về phía cửa sổ, ở các nhóm Khùa và Ma Coong thì tử thi được đặt dọc sàn, chân hướng về phía cửa chính. Sau 2-3 ngày mới đưa ma, chôn người chết vào bãi mộ chung của làng.
Quan tài gỗ đẽo độc mộc, gồm hòm và nắp; xưa kia có nơi người chết được bó trong vỏ cây hoặc tấm đan bằng giang, nứa. Chọn đất đào huyệt theo cách dùng trứng gà thả rơi, vỡ trứng là được. Tang gia trước khi mai táng mỗi ngày cúng cơm đặt thức ăn vào miệng tử thi 3 lần (sáng, trưa, tối), khi chôn cất phải dành phần cho người chết nhiều thứ từ đồ mặc đến vật dụng thông thường và cả giống mía, ngô, khoai môn, v.v...
Thờ cúng: Người Bru-Vân Kiều chú trọng thờ cúng tổ tiên. Theo họ, hiện thân của "linh hồn" các thân nhân quá cố là những mảnh nồi, mảnh bát v.v... đặt trong chòi nhỏ dựng riêng. Có nơi thờ cúng cả thần bản mệnh: mỗi người trong gia đình có một chiếc bát đặt chung trên bàn thờ tại nhà. Người ta rất tin và các "thần linh" (Yang): thần lúa, thần bếp lửa, thần núi, thần đất, thần sông nước v.v... Ma gia đình đằng vợ (Yang cu gia) cũng được con rể thờ cúng.
Lễ tết: Người Bru-Vân Kiều có nhiều lễ cúng khác nhau trong quá trình canh tác lúa rẫy nhằm cầu mùa, gắn với các khâu, phát, trỉa và thu hoạch. Ðặc biệt lễ thức trước dịp trỉa lúa diễn ra như một ngày hội của dân làng. Trong một đời người, mỗi người cũng có hàng loạt nghi lễ cúng quải về bản thân mình: khi ra đời, lúc đau ốm, khi qua đời, lúc thành hôn v.v... Lễ cúng có đâm trâu là lễ trọng nhất. Tết đến từng làng sớm muộn khác nhau, nhưng đều vào thời gian sau kỳ tuốt lúa.
Lịch: Họ căn cứ vào mặt trăng để định ra các ngày và tên ngày trong tháng. Quan niệm có những ngày tốt (nhất là mùng 4, 7, 9) và những ngày xấu (nhất là 30 và mùng 1). Mỗi năm, lịch nông nghiệp Bru-Vân Kiều gồm 10 tháng, tiếp đến thời kỳ nghỉ ngơi, chơi bời trước khi bước vào mùa rẫy mới.
Văn nghệ: Người Bru-Vân Kiều có nhiều truyện cổ được truyền miệng, kể về sự tích các dòng họ, nguồn gốc dân tộc, về đề tài người mồ côi v.v... Có các điệu hát như: Oát là loại hát đối đáp giao duyên. Prdoak là hát chúc vui, chúc tụng khi có việc mừng. Xươt là hát vui trong các sinh hoạt vui đùa đông người. Roai tol, Roai trong là loại hát kể lể nặng nề, oán trách. Adâng kon là hát ru trẻ con. Trong đám ma và lễ hội đâm trâu thường có múa kết hợp với hát. Nhạc cụ phổ biến là: cồng, chiêng, đàn Achung, Plư, Ta-lư, kèn Amam, Ta-ral, khèn Pi, nhị, đàn môi, trống, sáo...
Theo cema.gov.vn