Không biết ai đã khởi xướng cách thức làm ruộng phong tục nhưng con em Vân Kiều khi biết nhận thức đều được người lớn dạy bảo kĩ càng về phong tục kì bí này. Theo đó, các hộ gia đình có thể sở hữu bao nhiêu ruộng nương đi chăng nữa nhưng mỗi hộ phải tìm trên núi cao cho được một thửa ruộng vuông vức, đắc địa, quay mặt về bản làng đang ở để làm ruộng phong tục. Chọn đất xong, chủ hộ phải là đàn ông hay đứa con trai vạm vỡ nhất trong nhà đưa tay cuốc xới cẩn thận; không được dùng trâu bò cày bừa trong quá trình làm đất, như thế sẽ bất kính với Giàng.
Đồng bào Vân Kiều tin rằng, lúa giống khi gieo xuống được Giàng chăm nom mà không cần sử dụng phân bón hay bất kỳ loại thuốc trừ sâu bệnh nào, cứ thế cây lúa sẽ lớn lên từ tinh hoa của thổ nhưỡng, bằng sự tinh khiết của khí trời.
Phụ nữ Vân Kiều thu hoạch lúa thiêng. |
Điều đặc biệt ấy còn được nối dài đến mùa gặt, dù lúa các thửa ruộng khác đã chín nhưng không được phép thu hoạch trước lúa của ruộng phong tục. Không được sử dụng liềm hay bất cứ nông cụ nào vào việc thu hoạch, mọi thứ phải được tiến hành cẩn trọng, nâng niu bằng tay.
Người Vân Kiều quan niệm chỉ một người đứng ra thu hoạch từ đầu đến cuối thửa ruộng nhà mình khi lúa chín. Nếu hai người cùng tuốt lúa thì phải tuân thủ nguyên tắc luôn bước đối diện nhau, lưng đứng thẳng, tránh quay lưng lại với nhau, chớ tuốt lúa một cách bừa bãi (chưa xong chỗ này đã nhảy sang chỗ khác). Phụ nữ mới sinh đẻ, người bệnh tật, ốm đau không được góp công mình trong ngày thu hoạch. Hạt ngọc Giàng ban sau khi thu hoạch xong được phơi phóng cẩn thận ở một nơi riêng, sau đó đem đóng khô ráo bao bì rồi gác lên nơi khô ráo, thoáng mát nhất của ngôi nhà sàn.
Lúa thiêng khi sử dụng phải tiến hành nghi lễ xin phép Giàng, lễ vật gồm con gà, chén nước trong. Sau khi khấn vái xong, chủ hộ lấy lúa xuống, dùng hai tay bốc từng vốc bỏ vào cối đá rồi bắt đầu giã, không sử dụng máy xát để xay lúa thiêng. Người Vân Kiều không lấy gạo thiêng để ăn hàng ngày mà chỉ khi nào lễ lạt, bất trắc mới đưa gạo ấy ra nấu.
Đó là các ngày giỗ chạp, đón năm mới hay khi nào bản thân, đồng loại gặp nạn đói thì mới được phép lấy lúa thiêng ra cứu tế nhưng cũng phải làm lễ xin phép Giàng. Hạt lúa quý giá ấy có thể được phép mang ra làm quà cho ân nhân, bạn bè chí cốt, người mà chủ nhân thực sự quý mến.
Gạo ruộng thiêng là đặc sản, là niềm tự hào lớn lao của đồng bào Vân Kiều từ xưa đến nay. Để sản phẩm tinh túy này được lưu giữ cho đời sau, tổ tiên người Vân Kiều đề ra những nguyên tắc bất di bất dịch và sẵn sàng phạt nặng với những ai dẫu vô tình hay cố y vi phạm những điều cấm kị đó. Có sẵn một hội đồng đứng ra xử phạt gồm trưởng bản, già làng và một vị thầy cúng uy tín do dân tiến cử.
Nếu gia đình nào để trâu bò nhà mình phá hoại ruộng thiêng của người khác sẽ bị phạt vạ, mang lợn, gà, rượu cần đến tạ lỗi với Giàng, chủ nhân thửa ruộng và hội đồng. Kẻ nào tự ý hái trộm lúa mà người khác bắt được thì mổ trâu, bò đền cho cả làng. Theo dân bản những người đó còn xứng đáng bị Giàng phạt đến tán gia bại sản vì làm việc thất đức, xúc phạm Giàng, ảnh hưởng xấu đến đồng loại.
Còn đó những quy định ngặt nghèo tới mức cổ hủ và yếu tố tâm linh huyền ảo trong cách gìn giữ ruộng phong tục và hạt gạo Giàng ban của người Vân Kiều, tuy nhiên, những thửa ruộng thiêng của đồng bào bất chấp khắc nghiệt đến thời vụ vẫn được đều đặn gieo cấy, can trường vươn lên.
Duy trì phong tục tốt đẹp này, người Vân Kiều như muốn nhắn nhủ với con cháu, hãy luôn quý trọng hạt gạo và tất thảy những hoa lợi do tay mình làm nên. Giữ gìn nét đẹp văn hóa ấy cũng đồng thời góp phần kích thích niềm hăng say lao động, sản xuất, răn dạy con người về tích trữ, tiết kiệm, hỗ trợ tích cực vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo.
Tên tự gọi: Có người cho Bru là tên tự gọi
Tên gọi khác: Bru, Vân Kiều.
Nhóm địa phương: Vân Kiều, Trì, Khùa, Ma Coong.
Dân số: 74.506 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), gần gũi với tiếng Tà Ôi, Cơ Tu. Chữ viết mới hình thành theo cách phiên âm bằng chữ cái Latinh. Giữa các nhóm có một số từ vựng không giống nhau.
Lịch sử: Họ thuộc số dân cư được coi là có nguồn gốc lâu đời nhất ở vùng Trường Sơn.
Hoạt động sản xuất: Canh tác rẫy, trồng lúa là chính; nông cụ đơn giản: rìu, dao quắm, gậy trỉa, cái nạo cỏ có lưỡi cong. Cách thức sản xuất: phát rừng, đốt, rồi chọc lỗ gieo hạt giống, làm cỏ, tuốt lúa bằng tay; đa canh - xen canh trên từng đám rẫy kéo dài hàng năm từ tháng 3 đến tháng 10. Ngoài trồng các giống lúa tẻ, nếp, còn trồng sắn, bầu, chuối, cà, dứa, khoai mía v.v... Rừng và sông suối cung cấp nhiều thức ăn cùng nguồn lợi khác. Chăn nuôi trâu (về sau có cả bò), lợn, gà, chó là phổ biến.
Nghề thủ công không phát triển. Quan hệ trao đổi hàng hoá chủ yếu với người Việt và người Lào.
Ăn: Người Bru-Vân Kiều thích các món nướng. Canh thường nấu lẫn rau với gạo và cá hoặc ếch nhái. Họ ăn cơm tẻ thường ngày; khi lễ hội, cơm nếp nấu trong ống tre tươi; quen ăn bốc, uống nước lã, rượu cần (nay rượu cất là thông dụng). Nam nữ đều hút thuốc lá, tẩu bằng đất nung hoặc làm từ cây le.
Mặc: Theo phong tục, nam đóng khố, nữ mặc váy, còn áo không có tay, mặc chui đầu. Vải chủ yếu mua ở Lào. Y phục kiểu người Việt thời nay đã trở thành phổ biến, tập quán mặc váy vẫn được bảo lưu. Trước kia thường dùng vỏ cây rừng đập dập lấy xơ để che thân. Ðồ trang sức thường đeo là các loại vòng ở cổ, tay, khuyên tai. Xưa đàn ông, đàn bà đều búi tóc, riêng thanh nữ búi lệch tóc về phía bên trái, khi đã có chồng tóc được búi trên đỉnh đầu.
Ở: Người Bru-Vân Kiều sống ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên thuộc miền tây các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế, Quảng Bình. Mỗi làng là một điểm cư trú quần tụ. Mỗi gia đình có nhà riêng, ở nhà sàn, bếp lửa bố trí ngay trên sàn nhà, kiêng nằm ngang sàn. Nhóm Trì, Khùa, Ma Coong nhà thường ngăn thành buồng làm chỗ ngủ riêng cho vợ chồng gia chủ, cho bố mẹ già (nếu có), cho con đã lớn.
Phương tiện vận chuyển: Người Bru-Vân Kiều dùng các loại gùi, đeo gùi sau lưng, 2 quai gùi quàng vào đôi vai. Chiếc gùi gắn bó khăng khít với mỗi người như hình với bóng, là vật dụng vận tải đa năng.
Quan hệ xã hội: Dân làng thuộc các dòng họ khác nhau, cùng sinh sống trên một địa vực, trong đó đất trồng trọt thuộc về từng gia đình, kể cả khi bỏ hoá. Người "già làng" có vai trò quan trọng đối với đời sống của làng. Sự giàu-nghèo hình thành, nhưng hầu hết các hộ trong làng tương đối khác biệt nhau. Tài sản được xác định bằng chiêng, cồng, ché, nồi đồng, trâu v.v...
Hiện tượng người bóc lột người không phổ biến.
Cưới xin: Cô dâu về ở đằng nhà chồng, nhà trai tổ chức cưới vợ cho con và phải biếu đồ sính lễ cho nhà gái, trong đó có thanh kiếm và thường cả chiếc nồi đồng nữa. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng còn phải làm "lễ cưới" lần thứ 2 khi có điều kiện về kinh tế, gọi là lễ Khơi, để người vợ chính thức được coi là thành viên dòng họ nhà chồng.
Theo tục lệ, việc con trai cô lấy con gái cậu được khuyến khích, việc kết hôn giữa vợ goá với anh hoặc em chồng cũng như giữa chồng goá với chị hoặc em vợ đều được chấp thuận và khi dòng họ A đã gả con gái cho dòng họ B thì dòng họ B không gả con gái cho dòng họ A nữa.
Sinh đẻ: Phụ nữ khi mang thai kiêng ăn thịt các con vật sa bẫy, không bước qua cây nằm ngang đường v.v... Họ đẻ con tại nhà, có bà mụ vườn đỡ đẻ. Trẻ sơ sinh được đặt tên sau vai ba tháng, phải tránh trùng với tên của người đã khuất trong dòng họ, nhưng thường các tên trong nhà được đặt cùng vần nhau.
Ma chay: Tử thi ở nhóm Vân Kiều được đặt năm ngang sàn nhà, chân hướng về phía cửa sổ, ở các nhóm Khùa và Ma Coong thì tử thi được đặt dọc sàn, chân hướng về phía cửa chính. Sau 2-3 ngày mới đưa ma, chôn người chết vào bãi mộ chung của làng.
Quan tài gỗ đẽo độc mộc, gồm hòm và nắp; xưa kia có nơi người chết được bó trong vỏ cây hoặc tấm đan bằng giang, nứa. Chọn đất đào huyệt theo cách dùng trứng gà thả rơi, vỡ trứng là được. Tang gia trước khi mai táng mỗi ngày cúng cơm đặt thức ăn vào miệng tử thi 3 lần (sáng, trưa, tối), khi chôn cất phải dành phần cho người chết nhiều thứ từ đồ mặc đến vật dụng thông thường và cả giống mía, ngô, khoai môn, v.v...
Thờ cúng: Người Bru-Vân Kiều chú trọng thờ cúng tổ tiên. Theo họ, hiện thân của "linh hồn" các thân nhân quá cố là những mảnh nồi, mảnh bát v.v... đặt trong chòi nhỏ dựng riêng. Có nơi thờ cúng cả thần bản mệnh: mỗi người trong gia đình có một chiếc bát đặt chung trên bàn thờ tại nhà. Người ta rất tin và các "thần linh" (Yang): thần lúa, thần bếp lửa, thần núi, thần đất, thần sông nước v.v... Ma gia đình đằng vợ (Yang cu gia) cũng được con rể thờ cúng.
Lễ tết: Người Bru-Vân Kiều có nhiều lễ cúng khác nhau trong quá trình canh tác lúa rẫy nhằm cầu mùa, gắn với các khâu, phát, trỉa và thu hoạch. Ðặc biệt lễ thức trước dịp trỉa lúa diễn ra như một ngày hội của dân làng. Trong một đời người, mỗi người cũng có hàng loạt nghi lễ cúng quải về bản thân mình: khi ra đời, lúc đau ốm, khi qua đời, lúc thành hôn v.v... Lễ cúng có đâm trâu là lễ trọng nhất. Tết đến từng làng sớm muộn khác nhau, nhưng đều vào thời gian sau kỳ tuốt lúa.
Lịch: Họ căn cứ vào mặt trăng để định ra các ngày và tên ngày trong tháng. Quan niệm có những ngày tốt (nhất là mùng 4, 7, 9) và những ngày xấu (nhất là 30 và mùng 1). Mỗi năm, lịch nông nghiệp Bru-Vân Kiều gồm 10 tháng, tiếp đến thời kỳ nghỉ ngơi, chơi bời trước khi bước vào mùa rẫy mới.
Văn nghệ: Người Bru-Vân Kiều có nhiều truyện cổ được truyền miệng, kể về sự tích các dòng họ, nguồn gốc dân tộc, về đề tài người mồ côi v.v... Có các điệu hát như: Oát là loại hát đối đáp giao duyên. Prdoak là hát chúc vui, chúc tụng khi có việc mừng. Xươt là hát vui trong các sinh hoạt vui đùa đông người. Roai tol, Roai trong là loại hát kể lể nặng nề, oán trách. Adâng kon là hát ru trẻ con. Trong đám ma và lễ hội đâm trâu thường có múa kết hợp với hát. Nhạc cụ phổ biến là: cồng, chiêng, đàn Achung, Plư, Ta-lư, kèn Amam, Ta-ral, khèn Pi, nhị, đàn môi, trống, sáo...
Theo cema.gov.vn