Tục cưới hỏi của người Ba - na

Tục cưới hỏi của người Ba - na
Trải qua những giai đoạn dài phát triển, người Ba - na tồn tại chế độ hôn nhân một vợ, một chồng bền vững, phong tục cưới xin tuy còn nhiều nét nguyên sơ nhưng giàu tinh thần nhân văn và mang đậm sắc thái tộc người.
Cũng giống như nhiều dân tộc ở Tây Nguyên, người Ba - na rất kiêng sống độc thân, cho nên, trai khôn lấy vợ, gái lớn lấy chồng không chỉ là quyền lợi mà còn là trách nhiệm bắt buộc đối với các thành viên trong cộng đồng.
Trai gái Ba - na đến tuổi trưởng thành đều có thể tự do chọn lựa người bạn đời. Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời chưa hẳn là sắc đẹp, cũng không phải là giàu nghèo hay môn đăng hộ đối mà phẩm chất không thể thiếu được của người vùng cao, đó là trung thực, khỏe mạnh, giỏi làm rẫy, trai có tài săn bắn, lấy củi, gái thạo đan lát, dệt vải.

Từ lúc yêu nhau cho đến khi nên vợ, nên chồng, đôi trai gái phải qua hai lễ tục bắt buộc là lễ trao vòng và lễ cưới.
 
Đám cưới của người dân tộc Ba Na. Ảnh: internet
Đám cưới của người dân tộc Ba Na. Ảnh: internet

Lễ trao vòng, tiếng Ba - na gọi là lễ “cật rêng”, có ý nghĩa như lễ đính hôn ở miền xuôi. Khi đã thực sự yêu thương nhau, đôi trai gái về thưa với gia đình hai bên. Theo phong tục, cha chàng trai hỏi ý kiến của con trai mình, còn bà mẹ của cô gái thì hỏi ý kiến của con gái mình, nếu đôi bên chấp thuận, nhà trai tìm người mai mối. Người làm mối tức “pơ ngai tơ roong” bao giờ cũng là đàn ông, thạo phong tục và biết ăn nói. Ông mối sẽ mời nhà gái đến nhà trai để tiến hành làm lễ trao vòng cho đôi trẻ.

Trước sự chứng kiến của hai gia đình, dưới sự hướng dẫn của ông mối, đôi trai gái lần lượt trao vòng cho nhau. Thường thì chàng trai trao cho cô gái chiếc vòng nhôm, đổi lại, cô gái trao cho chàng trai chiếc vòng đồng. Ở Kon Tum, vật đính hôn của chàng trai cho cô gái còn có thêm một chuỗi hạt cườm đeo cổ. Ngoài vật đính hôn, đôi trai gái còn có thể tặng cho nhau những kỷ vật do chính tay mình làm ra.
Luật tục Ba - na quy định, đôi trai gái đã qua lễ trao vòng thì không được có quan hệ yêu đương với người khác. Nếu vi phạm hoặc vì lý do nào đó muốn thoái hôn thì một trong hai bên phải nộp cho ông mối một con gà, phải trả lại vòng và bồi thường danh dự cho bên kia một con lợn ba gang và một chiếc nồi đồng bảy gang.

Lễ cưới, tiếng Ba - na gọi là “Pơ Koong”, thường được tiến hành vào cuối năm, nghĩa là sau mùa thu hoạch, trong tháng “khay ning nong”, tương đương với tháng 12 và tháng 1 Dương lịch, đó là lúc nông nhàn, thóc lúa đã đầy kho, trâu bò đầy chuồng và gà đầy sân. Ngày cưới bao giờ cũng là ngày giữa tháng, ngày trăng tròn, ngày được coi là tốt nhất để tiến hành công việc trọng đại. Đám cưới diễn ra trọn một ngày và là ngày hội của làng.
 
Cô dâu chú rể của dân tộc Ba Na. Ảnh: internet
Cô dâu chú rể của dân tộc Ba Na. Ảnh: internet

Hôn lễ được cử hành vào buổi chiều tại nhà Rông. Lễ vật bao gồm: một ché rượu cần, một con gà với bộ gan luộc chín và một đĩa tiết sống. Trong không khí trang nghiêm, trước sự chứng kiến của dân làng và hai họ, đại diện già làng làm lễ khấn báo với thần bản mệnh của cộng đồng, lấy tiết gà bôi lên đầu cô dâu và chú rể. Tiếp đó, ông mối cầm tay có đeo vòng của đôi tân hôn chạm vào nhau, bắt hai người phải ăn chung một đùi gà, một miếng gan gà, uống chung một bát rượu cúng. Già làng và ông mối chúc phúc cho đôi tân hôn.

Buổi tối, sau hôn lễ ở nhà Rông, đám cưới được tiếp tục tại hai gia đình với sự tham gia, góp vui của toàn thể dân làng. Người ta quây quần bên các ché rượu cần. Thức ăn thì bày lên những chiếc lá Pơ - pang đặt trên những tấm phiên hay chiếc nong to. Cha mẹ cô dâu, chú rể đến từng ché để mời mọc và cám ơn dân làng. Mọi người ăn uống, chuyện trò vui vẻ. Khi rượu uống đã say, chuyện nói đã đủ, dân làng chúc phúc đôi tân hôn và lần lượt ra về.

Trong buổi tối hôm đó, khi đám cưới đã tàn, ông mối dắt cô dâu về nhà trai, giao cho chú rể và tự tay trải chiếu cho đôi tân hôn. Trước khi đi ngủ, cô dâu, chú rể ăn chung với nhau bữa cơm đầu tiên. Ngày hôm sau, hai gia đình thông gia lần lượt mời ông mối đến nhà để cám ơn và trả công theo phong tục.

Nhìn chung, đám cưới của người Ba - na được tổ chức đơn giản. Quyền tự do hôn nhân của con cái được tôn trọng, không có tình trạng ép buộc hay gả bán. Trừ lễ vật ở nhà Rông do nhà trai chuẩn bị, còn chi phí cho bữa tiệc rượu ở gia đình nào thì gia đình ấy lo.
 
Theo thegioidisan.vn
Dân tộc Ba Na Dân tộc Ba Na

Tên tự gọi: Ba Na.

Tên gọi khác: Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông...

Nhóm địa phương: Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), Tơ Lô, Gơ Lar Krem.

Dân số: 227.716 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên đã kiến lập nên nền văn hoá độc đáo ở đây. Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội ở các cao nguyên miền Trung nước ta.

Hoạt động sản xuất: Người Ba Na canh tác lúa trên ruộng khô và rẫy. Cái cuốc là công cụ chủ yếu trong canh tác nông nghiệp ở tộc người này. Với ruộng khô thì việc thâm canh không bỏ hóa là đặc điểm khác với rẫy. Ruộng khô thường ở vùng ven sông suối. Từ đầu thế kỷ XX, việc làm ruộng nước bằng cày đã ngày càng phát triển ở nhiều nơi. Vườn chuyên canh và vườn đa canh cũng xuất hiện từ lâu. Công việc chăn nuôi và các nghề thủ công như: đan, dệt, gốm, rèn còn chưa phát triển.

: Ðịa bàn cư trú của người Ba Na trải rộng trên các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và miền Tây của Bình Ðịnh, Phú YênKhánh Hòa. Họ cư trú trên nhà sàn, cửa ra vào mở về phía mái, trên hai đầu đốc đều có trang trí hình sừng, ở giữa làng được xây cất một ngôi nhà công cộng - nhà làng, nhà rông với hai mái vồng và cao vút. Ðó là nhà khách của làng, nơi diễn ra mọi sinh hoạt chung của cộng đồng làng như giáo dục thanh thiếu niên, tổ chức nghi lễ, hội làng, xử án...

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng, cho nam, nữ và cho mọi lứa tuổi. Gùi nhiều kích cỡ to nhỏ và nhiều chủng loại, đan mau và thưa nhưng đều theo một mô típ cổ truyền.

Quan hệ xã hội: Làng là đơn vị xã hội hoàn chỉnh và duy nhất. Tàn dư mẫu hệ vẫn thể hiện rõ trong quan hệ gia đình, tộc họ và trong hôn nhân. Sự tan rã của chế độ mẫu hệ ở đây đã nâng cao địa vị của nam giới nhưng phía mẹ vẫn gần gũi hơn. Sau hôn nhân còn phổ biến tập quán cư trú phía nhà vợ. Xã hội có người giàu, người nghèo và tôi tớ.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm