Tục kết nghĩa của người Ba Na

Tục kết nghĩa của người Ba Na

Kết nghĩa làm cha (mẹ) con, hay anh (chị) em giữa những người có cùng tên, hoặc kết nghĩa chỉ để trả ơn một ai đó đã giúp đỡ mình trong lúc hoạn nạn, kết nghĩa vì đơn giản thấy quý mến nhau... là một trong những phong tục độc đáo của người Ba Na. 

Người Ba Na quan niệm Kết nghĩa sẽ góp phần xây dựng mối đoàn kết trong cộng đồng. Ảnh: baokontum.com.vn
Người Ba Na quan niệm Kết nghĩa sẽ góp phần xây dựng mối đoàn kết trong cộng đồng. Ảnh: baokontum.com.vn
Độc đáo lễ kết nghĩa cha con
Người Ba Na quan niệm, người trong cùng dòng họ, cộng đồng làng hoặc thậm chí trong vùng tuyệt đối không được đặt trùng tên nhau; nhưng nếu vô tình đặt tên giống nhau thì sẽ phải kết nghĩa làm cha (mẹ) con hoặc anh (chị) em tuỳ theo tuổi tác. Những người muốn trả ơn ai đó đã giúp đỡ mình vượt qua những lúc khó khăn, hoạn nạn như ốm đau, nghèo túng; hay cũng có thể chỉ là thấy ngưỡng mộ, quý mến nhau đều có thể kết nghĩa làm cha (mẹ) hoặc anh (chị) em. Để được trở thành những người thân thiết, những người kết nghĩa phải có một lễ kết nghĩa để mọi người trong dòng tộc, cộng đồng công nhận. Trong đó, độc đáo nhất là nghi lễ kết nghĩa làm cha (mẹ) con.

Già làng APik (làng Kon Klor, phường Thắng Lợi, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum) kể rằng: Người Ba Na gọi lễ kết nghĩa làm cha (mẹ) là lễ bú vú kết nghĩa. Theo đó, nếu là con trai thì nhận cha, là con gái thì nhận mẹ kết nghĩa. Trước khi làm lễ nhận cha (mẹ) với con, để được người kia đồng ý kết nghĩa với mình, họ phải nhờ người có uy tín trong làng gọi là ông mai đến dò hỏi ý kiến trước. Nếu được đồng ý thì họ sẽ tổ chức một cái lễ để cúng thần linh, mời mọi người đến chứng kiến và công nhận. Bao giờ người nhận làm con cũng phải là người làm lễ trước. Tuỳ theo điều kiện kinh tế của mỗi nhà mà có thể giết gà, heo hoặc bò để làm lễ. Tuy nhiên, không phải cứ có điều kiện là có thể làm lễ to, vì nếu người con mổ heo hoặc bò để làm lễ nhận cha (mẹ) thì sau này cha (mẹ) nuôi sẽ phải chia của cho người con kết nghĩa.

Bà Y Đê vợ của già làng A Pik vẫn nhớ như in cái nghi lễ cách đây hơn 50 năm, khi đó bà còn ở làng Kon Rờ Bàng I (xã Vinh Quang, thành phố Kon Tum) được một người trong làng nhận làm con nuôi. Nghi lễ kết nghĩa diễn ra khá long trọng và mang ý nghĩa rất sâu sắc: sau khi mổ heo, ông mai lấy một chút huyết của con vật hiến tế hoà với một chút rượu cần, cầu khấn thần linh; sau đó, từ từ đổ rượu huyết từ trên vai của người mẹ để nó chảy xuống ngực và bà (người được nhận làm con nuôi) quỳ xuống hứng lấy dòng rượu đó trước sự chứng kiến của mọi người. Điều này có ý nghĩa là bà đã bú sữa mẹ, tức là đã như mẹ con ruột thịt. Khi dòng rượu huyết vừa cạn, thầy cúng tuyên bố kể từ lúc đó, hai người chính thức là mẹ con của nhau, sống chết có nhau, cùng nhau chia sẻ mọi vui buồn trong cuộc sống. Sau phần lễ, mọi người cùng nhau ăn uống, ca hát, chúc mừng cho tình thân mới.

Theo phong tục của người Ba Na, người con kết nghĩa sẽ không được yêu thương hoặc lấy một ai trong gia đình người mình nhận làm cha (mẹ), nếu vi phạm thì sẽ bị phạt rất nặng và bị đuổi ra khỏi cộng đồng làng.

Sau lễ nghĩa của người con một thời gian, người cha (mẹ) nuôi sẽ phải làm một cái lễ lớn hơn đễ ‘trả nghĩa” cho cha, mẹ ruột và dòng tộc của người con nuôi, sau đó sẽ chia cho người con nuôi một chút của như: rẫy hay trâu, bò, gà...

Kết nghĩa để tăng thêm tình đoàn kết

Kết nghĩa làm cha (mẹ) con, hay kết nghĩa làm anh (chị) em, theo quan niệm của người Ba Na thì mục đích cuối cùng là làm cho con người ta gần gũi nhau hơn, yêu thương nhau hơn. Vì thế, việc kết nghĩa không đơn thuần chỉ là mối quan giữa hai người, mà nó mang ý nghĩa đẹp đẽ hơn là để tăng thêm tình đoàn kết, cùng nhau vượt qua khó khăn, củng cố sức mạnh của cộng đồng dân cư.
 
Khi hai người kết nghĩa với nhau thì họ phải có trách nhiệm với nhau. Ảnh: baokontum.com.vn
Khi hai người kết nghĩa với nhau thì họ phải có trách nhiệm với nhau. Ảnh: baokontum.com.vn

Anh A Lê Khăm (làng Kon Tum Kơ Nâm, phường Thống Nhất, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum) cho biết: Người Ba Na thích kết nghĩa với nhau, vì mong muốn qua việc này, cộng đồng sẽ gắn kết hơn và mạnh thêm, gia đình có thêm người thân để làm lụng, cùng bảo vệ tài sản, tính mạng trước thú dữ và thiên tai... Bởi theo luật tục, khi hai người đã trở thành anh (chị) em, cha (mẹ) con kết nghĩa, tức là họ đã trở thành một thành viên của gia đình, dòng họ và rộng hơn là trở thành một thành viên trong cộng đồng; do đó, họ phải có trách nhiệm giúp đỡ, chia ngọt sẻ bùi với nhau trong mọi hoàn cảnh, không được làm điều xấu với nhau, phải sống chết có nhau, nếu không sẽ bị trừng phạt...


Bà Y Đê tiết lộ thêm: Từ lúc làm con nuôi, có thêm một gia đình nữa cũng đồng nghĩa với việc tôi phải thêm trách nhiệm với gia đình mình nhận làm mẹ nuôi. Ngược lại, mọi người cũng đối xử với tôi như một thành viên chính thức trong nhà, khi đi lấy chồng cũng được cho của hồi môn, đến giờ mấy chục năm rồi mà anh em trong nhà vẫn tới thăm nhau.

Ngày nay, việc kết nghĩa làm cha (mẹ) con có phần ít đi, phần vì nghi lễ khá rườm rà, tốn kém; phần vì nó liên quan đến việc chia của cải, nên chỉ có những người cùng tên mà thật quý mến nhau, hoặc không cùng tên nhưng có tình cảm đặc biệt với nhau thì mới kết nghĩa nhau. Nhưng riêng tục kết nghĩa làm anh (chị) em thì vẫn còn khá nhiều. Chỉ cần hai người thấy trân trọng, muốn gắn bó với nhau, không phân biệt tên họ, nam hay nữ, địa bàn hay dân tộc... họ đều có thể kết nghĩa với nhau. Nghi thức cũng đơn giản chỉ với một con gà, ghè rượu và vài người chứng kiến là họ đã có thể trở thành anh (chị) em với nhau...

Theo baokontum.com.vn
Dân tộc Ba Na

Tên tự gọi: Ba Na.

Tên gọi khác: Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông...

Nhóm địa phương: Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), Tơ Lô, Gơ Lar Krem.

Dân số: 227.716 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên đã kiến lập nên nền văn hoá độc đáo ở đây. Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội ở các cao nguyên miền Trung nước ta.

Hoạt động sản xuất: Người Ba Na canh tác lúa trên ruộng khô và rẫy. Cái cuốc là công cụ chủ yếu trong canh tác nông nghiệp ở tộc người này. Với ruộng khô thì việc thâm canh không bỏ hóa là đặc điểm khác với rẫy. Ruộng khô thường ở vùng ven sông suối. Từ đầu thế kỷ XX, việc làm ruộng nước bằng cày đã ngày càng phát triển ở nhiều nơi. Vườn chuyên canh và vườn đa canh cũng xuất hiện từ lâu. Công việc chăn nuôi và các nghề thủ công như: đan, dệt, gốm, rèn còn chưa phát triển.

: Ðịa bàn cư trú của người Ba Na trải rộng trên các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và miền Tây của Bình Ðịnh, Phú YênKhánh Hòa. Họ cư trú trên nhà sàn, cửa ra vào mở về phía mái, trên hai đầu đốc đều có trang trí hình sừng, ở giữa làng được xây cất một ngôi nhà công cộng - nhà làng, nhà rông với hai mái vồng và cao vút. Ðó là nhà khách của làng, nơi diễn ra mọi sinh hoạt chung của cộng đồng làng như giáo dục thanh thiếu niên, tổ chức nghi lễ, hội làng, xử án...

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng, cho nam, nữ và cho mọi lứa tuổi. Gùi nhiều kích cỡ to nhỏ và nhiều chủng loại, đan mau và thưa nhưng đều theo một mô típ cổ truyền.

Quan hệ xã hội: Làng là đơn vị xã hội hoàn chỉnh và duy nhất. Tàn dư mẫu hệ vẫn thể hiện rõ trong quan hệ gia đình, tộc họ và trong hôn nhân. Sự tan rã của chế độ mẫu hệ ở đây đã nâng cao địa vị của nam giới nhưng phía mẹ vẫn gần gũi hơn. Sau hôn nhân còn phổ biến tập quán cư trú phía nhà vợ. Xã hội có người giàu, người nghèo và tôi tớ.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Ba Na

Có thể bạn quan tâm

Lễ ăn mừng đầu lúa mới của đồng bào Raglai

Lễ ăn mừng đầu lúa mới của đồng bào Raglai

Đồng bào Raglai sở hữu một kho tàng tri thức dân gian đồ sộ, từ sử thi, truyện cổ, dân ca đến luật tục… Không chỉ vậy, đồng bào còn lưu giữ nhiều lễ hội dân gian đặc sắc như Lễ ăn mừng đầu lúa mới, lễ bỏ mả, các nghi lễ vòng đời… Trong đó lễ ăn mừng đầu lúa mới đã được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, khẳng định gái trị văn hóa sâu sắc và vai trò quan trọng trong đời sống, tinh thần của cộng đồng người Ragalai.

Món cà đắng lòng gà bọc lá chuối của người Jrai

Món cà đắng lòng gà bọc lá chuối của người Jrai

Ẩm thực của người Jrai ở Gia Lai luôn độc đáo với những món ăn ngon, dân dã, đậm nét truyền thống. Trong số đó, món cà đắng lòng gà bọc lá chuối nổi bật như một biểu tượng của sự sáng tạo và gắn kết với thiên nhiên.

Vui Tết rừng với đồng bào Mông Nà Hẩu

Vui Tết rừng với đồng bào Mông Nà Hẩu

Đến hẹn lại lên, cứ vào ngày cuối cùng của tháng Giêng hằng năm, đồng bào dân tộc Mông ở xã Nà Hẩu, huyện Văn Yên (Yên Bái) nô nức hội tụ tại các điểm trung tâm bản để tổ chức Lễ Cúng rừng hay còn gọi Tết rừng.

Gìn giữ món bánh bạc đầu truyền thống của người Sán Dìu

Gìn giữ món bánh bạc đầu truyền thống của người Sán Dìu

Văn hóa ẩm thực của người Sán Dìu tại Quảng Ninh sở hữu những đặc trưng riêng, thể hiện sự khéo léo, tinh tế trong chế biến, phối hợp các thực phẩm. Một trong những món ăn đặc sắc đó là bánh bạc đầu đã trở thành đặc sản nổi tiếng. Thưởng thức các món bánh thơm ngon và tìm hiểu về văn hóa độc đáo của người Sán Dìu ở vùng cao Quảng Ninh là trải nghiệm đáng nhớ.

Tái hiện lễ Khai hạ của đồng bào dân tộc Mường

Tái hiện lễ Khai hạ của đồng bào dân tộc Mường

Nằm trong khuôn khổ các hoạt động của ngày hội " Sắc xuân trên mọi miền Tổ quốc" xuân Ất Tỵ 2025, tại làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào dân tộc Mường đến từ tỉnh Hòa Bình đã tổ chức tái hiện lễ hội Khai hạ đặc sắc.

Nghi thức lễ hát múa ăn mừng dưới cây bông của đồng bào dân tộc Thái

Nghi thức lễ hát múa ăn mừng dưới cây bông của đồng bào dân tộc Thái

Nằm trong khuôn khổ các hoạt động của ngày hội “Sắc xuân trên mọi miền Tổ quốc” xuân Ất Tỵ 2025, tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) bà con đồng bào dân tộc Thái đến từ huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức tái hiện trích đoạn nghi thức lễ hát múa ăn mừng dưới cây bông (Kin Chiêng Boọc Mạy) đặc sắc.

Chiêm ngưỡng vẻ đẹp trang phục truyền thống của người Dao Thanh Y

Chiêm ngưỡng vẻ đẹp trang phục truyền thống của người Dao Thanh Y

Người Dao Thanh Y sinh sống trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nhiều năm qua vẫn luôn giữ được bản sắc văn hóa riêng thông qua phong tục, tập quán hay nếp sinh hoạt hằng ngày và đặc sắc trong đó có bộ trang phục truyền thống của phụ nữ Dao Thanh Y là một di sản văn hóa độc đáo, mang đậm nét đặc trưng.

Lễ cúng rừng của người Mông nơi đại ngàn xanh Nà Hẩu

Lễ cúng rừng của người Mông nơi đại ngàn xanh Nà Hẩu

Đối với đồng bào dân tộc Mông ở xã Nà Hẩu (huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái), lễ cúng rừng hay còn gọi Tết rừng có từ khi tổ tiên di cư đến nơi đây lập làng, lập bản và trở thành bản sắc văn hóa, tín ngưỡng dân gian độc đáo riêng có.

Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa

Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa

Ngày 5/2 (tức mùng 8 Tết Ất Tỵ), tại xã Phong Phú, huyện Tân Lạc (Hòa Bình) diễn ra Lễ hội Khai hạ dân tộc Mường năm 2025. Đây là lễ hội dân gian truyền thống lớn nhất của dân tộc Mường, đồng thời trở thành nét sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng không thể thiếu trong dịp Tết đến, Xuân về của người Mường ở Hòa Bình. Lễ hội thu hút hàng nghìn người dân, du khách trong và ngoài tỉnh đến tham gia.

Gìn giữ nghề dệt thổ cẩm trang phục dân tộc Thái ở Điện Biên

Gìn giữ nghề dệt thổ cẩm trang phục dân tộc Thái ở Điện Biên

Cộng đồng người Thái là một trong ba dân tộc chiếm phần lớn dân số của tỉnh Điện Biên. Nghề dệt thổ cẩm trang phục truyền thống của dân tộc Thái dù đã từng đối mặt với nguy cơ mai một nhưng hiện vẫn được gìn giữ. Những nghệ nhân lớn tuổi vẫn bền bỉ truyền nghề cho thế hệ trẻ từng họa tiết, hoa văn đặc trưng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Hội làng mừng Gươl mới của đồng bào Cơ-tu thôn Aró. Ảnh: Khánh Nguyên

Người Cơ-tu vui hội mừng Gươl mới

Với đồng bào Cơ-tu ở thôn Aró, xã Lăng, huyện Tây Giang (Quảng Nam), Gươl là không gian sinh hoạt chung, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh. Để chào mừng công trình trọng đại này, đồng bào Cơ-tu thường tổ chức lễ mừng Gươl mới, góp phần bảo tồn nét đẹp văn hóa cộng đồng.

Lễ sum họp của người M’nông

Lễ sum họp của người M’nông

Cứ từ 3 đến 5 năm, trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 3, khi mùa màng thu hoạch xong, đồng bào M’nông ở tỉnh Đắk Nông lại tổ chức lễ sum họp nhằm cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Gìn giữ nghệ thuật thêu, dệt thổ cẩm của người Dao Thanh Y

Gìn giữ nghệ thuật thêu, dệt thổ cẩm của người Dao Thanh Y

Nếu như người đàn ông đóng vai trụ cột trong đời sống của người Dao Thanh Y thì phụ nữ ở dân tộc này lại nắm giữ những giá trị không thể thay thế, là người nuôi dưỡng phát huy nguồn văn hóa truyền thống trong mỗi gia đình và rộng hơn là bản sắc của cả một dân tộc. Một trong những nét văn hóa của phụ nữ Dao Thanh Y ở thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh còn giữ lại được là nghệ thuật thêu, dệt thổ cẩm, thể hiện sự khéo léo, tài tình của phụ nữ.

Đồng bào Mông ở Sơn La rộn ràng đón Tết cổ truyền

Đồng bào Mông ở Sơn La rộn ràng đón Tết cổ truyền

Ở Sơn La, đồng bào Mông thường đón Tết cổ truyền (Nào Pê Chầu) sớm hơn Tết Nguyên đán 1 tháng, bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên để giữ gìn nét văn hóa truyền thống, giáo dục cho con cháu luôn hướng về cội nguồn.

Độc đáo canh gà rượu Bâu bổ dưỡng của người Dao Thanh Y

Độc đáo canh gà rượu Bâu bổ dưỡng của người Dao Thanh Y

Tại chân núi Yên Tử, cộng đồng người Dao Thanh Y tuy không quá đông nhưng bà con nơi đây vẫn duy trì sinh hoạt và phát huy được nét đẹp văn hóa đậm đà bản sắc, trở thành một phần không thể thiếu khi nói về những giá trị văn hóa phi vật thể của thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.

Giữ lửa nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Mông trên đỉnh Hang Kia – Pà Cò

Giữ lửa nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Mông trên đỉnh Hang Kia – Pà Cò

Nằm trong vùng núi cao của huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, xã Hang Kia và Pà Cò là nơi sinh sống của cộng đồng dân tộc Mông, một dân tộc có nền văn hóa lâu đời với những giá trị truyền thống đặc sắc. Trong đó, nghề dệt, thêu thổ cẩm là một phần quan trọng trong đời sống của người dân nơi đây.

Nét đẹp văn hóa trong trang phục của phụ nữ Hà Nhì

Nét đẹp văn hóa trong trang phục của phụ nữ Hà Nhì

Với sự tài hoa trong nghệ thuật thêu, can, ghép vải trên trang phục, người Hà Nhì đã tạo ra nét độc đáo riêng cho trang phục truyền thống của dân tộc mình, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú trong bản sắc văn hóa các dân tộc tỉnh Điện Biên.

Kinh lá buông - “báu vật” của đồng bào Khmer An Giang

Kinh lá buông - “báu vật” của đồng bào Khmer An Giang

Là một trong Tam bảo của Phật giáo Nam Tông Khmer, kinh lá buông được xem như “báu vật” có giá trị đặc biệt trong đời sống tâm linh của đồng bào Khmer vùng Bảy núi An Giang. Kinh lá buông không chỉ là tài liệu ghi chép về các nghi lễ tôn giáo mà còn là kho tàng tri thức về văn học, y học, lịch pháp cũng như những câu chuyện dân gian phản ánh cuộc sống của cộng đồng.

Đặc sắc trang phục truyền thống của phụ nữ Pà Thẻn

Đặc sắc trang phục truyền thống của phụ nữ Pà Thẻn

Là dân tộc sống lâu đời trên vùng núi cao, người Pà Thẻn vẫn lưu giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống, đặc biệt là trang phục của phụ nữ với màu sắc, họa tiết hoa văn đặc trưng, tạo nên nét độc đáo riêng.

Đặc sắc lễ mừng cơm mới của đồng bào Mường ở Miền Đồi

Đặc sắc lễ mừng cơm mới của đồng bào Mường ở Miền Đồi

Lễ mừng cơm mới là một trong những nghi lễ truyền thống quan trọng và mang ý nghĩa văn hóa sâu sắc của đồng bào dân tộc Mường. Đây là dịp để tạ ơn thần linh, tổ tiên đã ban cho một vụ mùa bội thu, đồng thời cũng là cơ hội để cộng đồng gắn kết, gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc.

Ẩm thực của người Ê-đê

Ẩm thực của người Ê-đê

Người Ê-đê trên Cao nguyên Đắk Lắk không chỉ có truyền thống văn hóa lâu đời mà còn có nền ẩm thực đặc sắc với những món ăn độc đáo, là sự hòa quyện của hương vị núi rừng. Ẩm thực của người Ê-đê là sự hòa trộn tinh tế của các loại thực phẩm sẵn có của địa phương, các loại thảo mộc, gia vị cùng phong cách nấu nướng và chế biến đặc biệt.