Ngoài ra, đồng bào dân tộc Co Trà My còn tạo ra chiếc nón làm từ lá dừa rừng (nuát xa dlưr) và nó trở thành phương tiện đội rất hữu ích và thiết thực trong đời sống của tộc người mình. Trong gia đình, người đàn ông dân tộc Co nào cũng có một chiếc nón lá dừa để sử dụng. Khi đi làm nương, vào dịp đi thăm anh em, bạn bè, họ hàng ở những làng xa, bao giờ người đàn ông Co cũng mang theo chiếc nón dùng để che nắng, che mưa.
Đàn ông dân tộc Co huyện Bắc Trà My (Quảng Nam) trong trang phục truyền thống với chiếc nón lá dừa. |
Già làng Hồ Văn Hành, 73 tuổi dân tộc Co hiện đang sinh sống tại thôn 2A, xã Trà Kót, huyện Bắc Trà My (Quảng Nam) cho biết: Để làm được một chiếc nón lá dừa rừng (nuát xa dlưr) rất khó khăn, không phải đàn ông dân tộc Co nào cũng làm được, chỉ có những đàn ông Cor khéo tay mới tạo ra chiếc nón đẹp và hoàn hảo, dẫu rằng không có một quy chuẩn hay về cả kích thước, khuôn mẫu nào định sẵn. Với người Co quê ông, chỉ biết ước chừng làm ra chiếc nón tốn bao nhiêu thời gian.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, để tạo ra một chiếc nón đúng tiêu chuẩn thì khâu chuẩn bị nguyên liệu đóng vai trò then chốt. Người đàn ông thường tốn rất nhiều thời gian và công sức để vào rừng tìm mây cám mục và lá dừa rừng. Theo kinh nghiệm, người Co thường khai thác lá dừa rừng không quá già mà cũng không quá non. Mùa khai thác lá dừa rừng là những ngày cuối tháng hoặc vào những dịp không có trăng thì lá dừa sẽ không bị sâu và có độ bền cao.
Khi tìm được lá dừa từ rừng đem về, họ bắt tay vào làm khung xương nón, kích cỡ 40cm x 45cm. Với nghệ thuật đan long mốt, các lỗ nan có dáng hình lục giác. Để tạo dáng và khung đỡ cho chiếc nón, phần rìa và các đường đan được bẻ gập làm cho khung nón không bị bung ra. Khi khung làm xong, họ tiến hành lợp lá, số lượng lá cho một chiếc nón thường từ 2 - 3 lá dừa rừng. Việc tiếp theo là cạp vành bằng kỹ thuật rút vành trong cho đến vành ngoài. Để giữ cho nón cố định, người Co đan thêm gờ hình tròn, đường kính khoảng 10cm bằng mây ở chính giữa nón để giữ cho nón có độ thăng bằng thích hợp và mỗi khi đội không bị lệch, cuối cùng là làm quai nón thường bằng dây rừng hoặc dây mây vót nhỏ đan theo lối long mốt tạo cho dây quai nón có dáng hình xoắn rất chắc chắn.
Hình ảnh thân quen của đồng bào Co
Có thể nói, từ lâu chiếc nón lá dừa đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người Co nơi đây. Qua thời gian đã có sự chuyển biến và ảnh hưởng lẫn nhau nhưng dẫu rằng trong điều kiện hội nhập như hiện nay, do có sự giao lưu văn hóa vùng miền của các dân tộc sống cận cư trong vùng diễn ra mạnh mẽ, đã và đang làm cho những yếu tố văn hóa cổ truyền của đồng bào dân tộc Co huyện Bắc Trà My đang bị mai một, nhưng với chiếc nón lá dừa nó luôn là vật dụng không thể thiếu trong đời sống hàng ngày, trong lao động sản xuất, những dịp đi xa mà nó còn là hình ảnh thân quen lưu lại trong ký ức của người Co nơi đây.
Nếu có dịp đến với các bản làng của đồng bào dân tộc Co vào cuộc sống hàng ngày, thì chiếc nón lá dừa không chỉ được người đàn ông Co sử dụng như một người bạn mà nó còn là một tập quán sinh hoạt rất phổ biến của đồng bào vùng cao huyện Bắc Trà My (Quảng Nam) trong lao động sản xuất, vào dịp lễ hội truyền thống.
Tên tự gọi: Cor, Col.
Tên gọi khác: Cua, Trầu.
Dân số: 33.817 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), tương đối gần gũi các dân tộc khác trong vùng bắc Tây Nguyên và lân cận như: Hrê, Xơ Ðăng, Ba Na... Chữ viết ra đời từ thời kỳ trước năm 1975 trên cơ sở dùng chữ cái La-tinh. Hiện nay chữ viết này không không phổ biến nữa.
Lịch sử: Người Co cư trú rất lâu đời ở tây bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây nam tỉnh Quảng Nam.
Hoạt động sản xuất: Kinh tế rẫy là nguồn sống chủ yếu, lúa rẫy là nguồn lương thực chính. Canh tác theo hình thức phát rừng, đốt, chọc lỗ tra hạt giống, tuốt lúa bằng tay. Kỹ thuật xen canh - đa canh trên từng đám rẫy và luân canh giữa các đám rẫy. Trầu không và quế của người Co nổi tiếng lâu đời. Ðặc biệt quế quý và nhiều là một nguồn lợi lớn: quế rừng và quế trồng. Rẫy quế của mỗi gia đình là loại tài sản quan trọng, thường 10 năm trở lên mới được thu hoạch. Nhờ bán quế, các gia đình có tiền mua sắm các gia sản được ưa chuộng (cồng, chiêng, ché, trâu, v.v... và nay thì xe, đài, đồng hồ, xây nhà, đóng đồ gỗ), đồng thời cũng chi dùng vào việc ăn uống, mặc, v.v... Hình thức dùng vật đổi vật được ưa thích.
Chăn nuôi: Trâu, lợn, gà trước hết để cúng tế; chó hầu như nhà nhà đều có. Nghề dệt và rèn không phát triển. Ðồ đan đẹp và phong phú. Sản phẩm hái lượm và săn bắt có ý nghĩa không nhỏ trong đời sống người Co.
Ăn: Bữa ăn thông thường là cơm gạo tẻ, muối ớt, các loại rau rừng và thịt cá kiếm được. Trước kia, đồng bào quen ăn bốc. Ðồ uống là nước lã, rượu cần, nay nhiều người đã dùng nước chín, nước chè xanh, rượu cất. Tục ăn trầu cau chỉ được duy trì ở lớp người lớn tuổi, nhưng tục hút thuốc lá vẫn còn phổ biến.
Ở: Người Co sống tập trung ở Trà Bồng và Trà Mi thuộc tây bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây nam tỉnh Quảng Nam. Nhà sàn dài, cửa ra vào ở hai đầu hồi. Trong nhà chia dọc thành 3 phần: lối đi ở giữa, một bên được ngăn thành từng buồng nhỏ cho các gia đình sinh hoạt riêng, còn một bên dùng làm nơi sinh hoạt chung (tiếp khách, họp bàn, tổ chức lễ hội, ăn uống đông người, đan lát, vui chơi...). Xưa kia thường mỗi làng ở tập trung trong một vài ngôi nhà kiểu này, dài có khi hàng trăm mét, bên ngoài có rào chắn và bố trí vũ khí để phòng vệ. Gần đây, khắp vùng người Co phát triển trào lưu từng gia đình tách ra làm nhà ở riêng, nhà trệt, dựng theo kiểu nhà người Việt ở địa phương, đã có nhiều nhà lợp tôn, lợp ngói, cả nhà xây nữa.
Mặc: Ðồ mặc của người Co chủ yếu mua của người Xơ Ðăng và người Việt. Theo nếp truyền thống, nam đóng khố, ở trần, nữ quấn váy, mặc áo cộc tay; mùa lạnh thì khoác tấm vải choàng. Bộ quần áo dài với khăn xếp du nhập từ đồng bằng lên từng được dùng trưng diện trong ngày lễ hội, nhất là những bô lão khá giả. Ngày nay, quần áo người Việt được dùng lan tràn, váy còn thấy một số phụ nữ mặc nhưng đều dùng vải công nghiệp. Các loại vòng trang sức cũng chỉ bắt gặp thưa thớt, đơn giản, không dễ tìm được những phụ nữ quấn nhiều chuỗi hạt cườm quanh đầu, quanh cổ tay, cổ chân, trước ngực và quanh thắt lưng như trước kia nữa.
Phương tiện vận chuyển: Người Co có các loại gùi tự đan dùng để vận chuyển rất tiện lợi, thích hợp với điều kiện đất dốc, rừng núi và suối. Mọi thứ đều bỏ trong gùi và gùi được cõng trên lưng, có 2 quai quàng qua đôi vai.
Quan hệ xã hội: Mỗi làng có ông "già làng" được mọi người kính trọng và nghe theo. Dân làng sinh sống trên một địa vực ổn định có ranh giới, việc chuyển dịch cư trú của làng cũng chỉ trong vùng lãnh thổ ấy. Trong làng thường có quan hệ thân thuộc qua lại với nhau: hoặc về huyết thống, hoặc do hôn nhân. Tuy mỗi gia đình làm ăn riêng, chiếm hữu riêng đất rẫy, nhưng tính cộng đồng làng khá cao. Xã hội truyền thống Co đã nảy sinh giàu - nghèo khác nhau, nhưng chưa phát triển các hình thức bóc lột: nô lệ gia đình, cho vay nặng lãi...
Cưới xin: Hình thức hôn nhân cư trú đằng chồng là phổ biến. Phong tục cho phép nếu vợ chết có thể lấy tiếp em hoặc chị của vợ, nhưng vợ goá không thể lấy em chồng; nếu 2 anh em trai lấy 2 chị em gái thì phải anh lấy chị, em lấy em; nếu con gái nhà này đã làm dâu nhà kia thì 2 - 3 đời sau nhà kia mới gả con gái cho nhà này. Con cô - con cậu, con gì - con già, con có chung cha mẹ đều không được lấy nhau. Cùng một gốc sinh thành, nếu là anh em trai thì đời chắt của họ hoặc sau đó nữa mới có thể lấy nhau, song nếu là chị em gái hay một gái một bên trai thì cháu hoặc chắt của họ có thể lấy nhau. Ðám cưới đơn giản, gọn nhẹ, không tốn kém nhiều, chỉ là dịp mọi người uống rượu vui chứng kiến đôi trai gái thành vợ, thành chồng.
Ma chay: Quan tài gỗ, đẽo theo kiểu độc mộc. Người chết được chôn trong bãi mộ của làng, đặt không xa chỗ ở. Tang gia "chia của" cho người mới chết, đưa ra mộ không chỉ vật dụng và tư trang của người ấy, mà cả ché, chiêng...
Thờ cúng: Những đỉnh núi cao được người Co gọi là núi Ông núi Bà. Họ cho rằng có "thần linh" trú ngụ ở đó. Hệ thống "ma" (ka muych) và "thần" (kơi, ma) rất đông: ma người chết bình thường, ma người chết bất bình thường, ma quế, ma cây đa, ma nước, thần bếp lửa... Bởi vậy, người ra có nhiều kiêng cữ và cúng quải gắn với sản xuất và đời sống.
Lễ tết: Người Co có nhiều lễ, lớn nhất là lễ có đâm trâu tế thần - đây cũng là ngày hội lớn trong làng. Ngoài ra, tết gắn với sự kết thúc một mùa lúa rẫy là dịp sinh hoạt nhộn nhịp. Trong hai dịp đó, các món ăn dân tộc, nghệ thuật dân tộc và trang phục dân tộc được thể hiện tập trung, khơi dậy văn hoá truyền thống.
Lịch: Cách tính ngày tháng tương đương với âm lịch của người Việt, nhưng chỉ có 10 tháng, tiếp đến là thời gian nghỉ ngơi sau vụ canh tác. Bên cạnh đó, người Co coi trọng việc xác định ngày tốt, xấu để thực hiện các công việc khác nhau.
Văn nghệ: Ưa thích âm nhạc, dùng bộ chiêng 3 chiếc là phổ biến: nhạc cụ còn có trống, các loại đàn nhị. Múa chỉ xuất hiện trong lễ đâm trâu. Các điệu dân ca Xru (Klu), Agiới được lưu truyền rộng rãi. Vốn truyện cổ khá phong phú, có huyền thoại, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn... Nghệ thuật trang trí tập trung nhất ở cây cột lễ và cái "gu" trong lễ hội đâm trâu.
Theo cema.gov.vn