Chú rể đặt lễ vật tặng lên đầu người thân |
Đám cưới của người Mạ hiện nay thường diễn ra trong 2 ngày tại nhà gái. Ngày đầu tiên sẽ thực hiện các nghi thức truyền trống, ngày thứ hai tổ chức tiệc cưới mời khách như kiểu người Kinh. Lễ nâng khăn đầu diễn ra trong buổi sáng ngày đầu tiên. Buổi lễ được tổ chức với ý nghĩa cô dâu - chú rể tôn trọng dòng họ hai bên, từ nay trở thành người thân, ruột thịt. Sau lễ này, cô dâu - chú rể cũng sẽ đổi cách xưng hô với mọi người hai bên gia đình.
Trước đây, nếu cô dâu – chú rể gọi thẳng tên của mọi người như K’Srai, H’Bạch, H’Sen, K’Riêng… thì nay sẽ được đổi thành từ xưng hô thân tộc như bố, mẹ, anh, chị, chú, dì, cô, bác… Lễ nâng khăn đầu có các nghi thức chính gồm: tặng lễ vật nâng đầu, trao vòng cườm, ăn cơm – uống rượu mừng và chúc phúc. Để buổi lễ diễn ra suôn sẻ, mỗi bên gia đình sẽ chọn ra một người làm chứng. Người làm chứng thường có quan hệ thân tộc, hiểu biết, uy tín và nhanh nhẹn. Người làm chứng nhà gái đảm nhận công việc chuẩn bị cơm nếp, thịt heo; người làm chứng nhà trai chuẩn bị rượu, nước uống để cô dâu – chú rể mời người nhận lễ.
Chú rể trao tặng vòng cườm cho người thân |
Trước người làm chứng và dòng họ hai bên gia đình, chú rể hay cô dâu đặt lễ vật lên đầu hoặc vai người thân cùng lời cảm ơn đã đến chung vui, từ nay xin được thay đổi cách xưng hô. Lần lượt ông bà, bố mẹ, anh chị em ruột, cô, dì, chú, bác… nhà trai và nhà gái sẽ được cô dâu – chú rể tặng lễ vật. Tùy theo mức độ gần gũi, thân thiết mà lễ vật nâng đầu từ áo quần, vải truyền thống đến vòng cườm, trang sức, tiền... được chọn trao tặng. Thường thì bố, mẹ, anh chị em ruột sẽ được tặng quần, áo, vải truyền thống (thổ cẩm) của người Mạ. Sau khi đặt lễ vật lên đầu hoặc vai, chú rể hay cô dâu sẽ đeo vòng cườm vào cổ cho người thân.
Đối với người Mạ, vòng cườm không chỉ là trang sức làm đẹp mà còn có nhiều ý nghĩa về tâm linh như đem lại may mắn, xua đuổi tà ma. Tiếp đến, mỗi người thân ăn một nắm cơm nếp, uống ly rượu mừng do cô dâu – chú rể mời như nhận tấm lòng chân thành của đôi vợ chồng trẻ. Sau khi nhận lễ, người thân sẽ lấy một ít cơm nếp đặt vào lòng bàn tay cô dâu hoặc chú rể rồi nói lời chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ. Mọi người mong muốn từ nay có thêm một gia đình hạnh phúc, con cái khỏe mạnh, giỏi giang...
Lễ nâng khăn đầu có các nghi thức đơn giản nhưng lại mang ý nghĩa sâu sắc, kết nối các thành viên trong gia đình, dòng họ. Dù ở gần hay xa, bận nhiều công việc đi chăng nữa, họ hàng hai bên gia đình đều cố gắng thu xếp, tham dự buổi lễ nâng khăn đầu. Nghi lễ một lần nữa khẳng định sự đoàn kết, tính cộng đồng trong đời sống của người Mạ. Đó còn là dấu mốc quan trọng, xây dựng niềm tin của đôi vợ chồng trẻ cho một cuộc sống mới, trách nhiệm với bản thân, gia đình, họ hàng và cộng đồng người Mạ nơi sinh sống.
Người làm chứng của hai bên gia đình cùng mẹ chú rể, mẹ cô dâu chuẩn bị rượu thịt, quà tặng cho dòng họ hai bên |
Người thân ăn cơm thịt cho cô dâu - chú rể mời |
Nắm cơm nếp được đặt vào lòng bàn tay cô dâu - chú rể kèm theo lời chúc phúc |
Theo baodaknong.org.vn
Tên tự gọi: Mạ.
Tên gọi khác: Châu Mạ, Chô Mạ, Chê Mạ.
Nhóm địa phương: Mạ Ngăn, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung.
Dân số: 41.405 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Lịch sử: Người Mạ là cư dân sinh tụ lâu đời ở Tây Nguyên.
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Hoạt động sản xuất: Nương rẫy đóng vai trò chủ yếu trong đời sống của người Mạ. Ðây là loại rẫy đa canh, ngoài trồng lúa còn trồng các loại cây khác như bắp, bầu, bí, thuốc lá, bông vải, ở vùng sông Ðồng Nai, người Mạ làm ruộng bằng kỹ thuật lùa cả đàn trâu xuống ruộng quần đất đến khi nhão bùn thì gieo lúa giống. Họ tính năng suất của rẫy theo số gùi lúa thu được khi trỉa một gùi lúa giống. Công cụ làm rẫy chủ yếu là rìu, xà gạc, dao, liềm, gậy chọc lỗ, gùi. Nghề đánh cá khá phổ biến. Trước đây, họ biết chế thuốc độc từ loại lá rừng bỏ xuống suối để bắt cá. Người Mạ nổi tiếng về nghề trồng bông dệt vải.
Ăn: Cơm gạo tẻ với muối trộn ớt, sả, măng tươi và một số loại rau rừng. Cách chế biến thức ăn chủ yếu là nướng, luộc, nấu canh. Họ thích uống rượu cần và hút thuốc lá bằng điếu khan.
Mặc: Phụ nữ mặc váy quấn dài quá bắp chân, áo chui đầu vừa sát thân dài tới thắt lưng, kín tà. Nam đóng khố, áo hở tà, vạt sau dài hơn vạt trước. Mùa lạnh, người già thường khoác thêm tấm mền. Người Mạ có tập quán cà răng, căng tai, phụ nữ thích đeo chuỗi hạt cườm nhiều màu sắc. Thanh niên mang nhiều vòng đồng ở cổ tay có ngấn khắc chìm như là ký hiệu của các lễ hiến sinh tế thần linh, cầu mát cho chính mình.
Ở: Người Mạ thường sống thành từng làng (bon) với một khu vực đất đai riêng biệt trên các cao nguyên Bảo Lộc, Di Linh, Ðạ Tẻ, lưu vực sông Ðồng Nai (Lâm Ðồng). Mỗi "bon" có từ 5 đến 10 nhà sàn dài. Nhà được làm bằng nứa, bương mai, hai mái lợp bằng lá mây. Mái cửa ra vào (cửa mẹ) uốn khum thành vòm bằng cành trúc đội trên mái cỏ. Xung quanh nhà ở, Họ còn dựng nhiều kho lúa trên sàn cao. Các cột nhà kho đều trang trí theo mô típ chày cối.
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là chiếc gùi nan mang sau lưng với nhiều loại to nhỏ khác nhau. Chiếc gùi dùng đi xa được trang trí hoa văn qua các đường đan. ở vùng ven sông Ðồng Nai, người Mạ làm thuyền độc mộc để đi lại, vận chuyển và đánh cá trên sông.
Quan hệ xã hội: Làng là đơn vị tổ chức xã hội cao nhất của người Mạ do chủ làng đứng đầu (quăng bon). Chủ làng có nhiệm vụ cùng tế trong các nghi lễ mang tính chất cộng đồng. Người Mạ tồn tại hai hình thức gia đình: gia đình lớn phụ quyền và gia đình nhỏ phụ quyền. Người chủ gia đình lớn là người cao tuổi nhất của thế hệ cao nhất trong gia tộc, có nhiệm vụ điều hành mọi công việc trong gia đình và trông coi các đồ dùng quý hiếm như chiêng, ché.
Trong loại gia đình lớn phụ quyền, từng cặp vợ chồng với con cái ở chung nhưng làm ăn riêng, còn gia đình nhỏ phụ quyền thì như một đơn vị kinh tế cá thể nhưng vẫn lưu giữ dấu vết của gia đình lớn phụ hệ.
Ngôi nhà dài truyền thống của người Mạ còn lại rất ít trong các buôn làng.
Cưới xin: Quyền chủ động hôn nhân do bên nhà trai, nhưng sau lễ cưới nếu nhà trai nộp đủ sính lễ thì đôi vợ chồng chỉ ở lại nhà gái 8 ngày, còn không, chàng trai phải ở rể đến khi nộp đủ mới được đưa vợ về nhà mình.
Sinh đẻ: Khi sinh con trai, nhau của đứa trẻ đựng trong vỏ trái bầu khô chôn trước nhà, nếu sinh con gái nhau chôn sau nhà. Sang ngày thứ 8, người mẹ bồng con ra sân tắm nắng, nếu con trai phải mang theo xà gạt, nỏ, dao vót nan, con gái mang theo gùi, rìu chẻ củi, túi đựng cơm và giới bên kia như xà gạt, rìu, ché, váy áo chôn cùng huyệt hoặc bỏ rải rác xung quanh mộ. Sau lễ mai táng thì bỏ mả và tang chủ phải kiêng 7 ngày không được vào rừng hoặc lên rẫy.
Thờ cúng: Người Mạ tin có thần (Yang). Họ thờ cúng nhiều Yang như Yang Hiu (thần nhà), Yang Koi (thần lúa), Yang Bơnơm (thần núi). Họ thường giết súc vật tế thần vào những dịp được mùa, sinh đẻ, bệnh tật, chết chóc. Lễ hiến sinh lớn nhất là lễ đâm trâu, thường được thực hiện lúc kết thúc mùa rẫy.
Lịch: Người Mạ theo âm lịch.
Học: Người Mạ không có chữ viết, nền văn hoá dân gian Mạ vẫn sống bằng lối sống nghìn xưa - thuộc lòng và truyền miệng.
Văn nghệ: Vốn văn học nghệ thuật dân gian khá phong phú gồm nhiều truyền thuyết, truyện cổ và những bài dân ca trữ tình gọi là "tam bớt".
Nhạc cụ truyền thống là bộ chiêng đồng 6 chiếc không núm. Khi hoà tấu có trống bịt da trâu đánh giáo đầu, giữ nhịp và đổ hồi trước khi kết thúc. Con trai Mạ thường thổi khèn bầu, sáo trúc, tù và bằng sừng trâu.
Theo cema.gov.vn