Người Sán Chay không trồng cây để lấy nguyên liệu dệt vải, họ mua vải của tộc người khác, họ chỉ tạo ra trang phục của tộc người mình từ khâu nhuộm vải, nhưng cũng không vì thế mà trang phục của họ mất đi bản sắc riêng của tộc người mình. Trang phục Sán Chay mang những nét độc đáo không bị lẫn với bất cứ dân tộc nào trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Vải của người Sán Chay được phát hoặc đi mua về gọi là vải tấm có màu trắng, vải bằng sợi bông không có chất hóa học, dài khoảng 4 m, rộng 50 cm. Sau khi lấy vải về họ chuẩn bị nguyên liệu để nhuộm vải.
Nguyên liệu để nhuộm vải là cây thiên nhiên có tên gọi là Chàm, cây được trồng vào khoảng tháng 1, tháng 2 và thu hoạch vào tháng 7, tháng 8. Cây có thân, lá và quả nhỏ, trung bình đến khi thu hoạch cây cao khoảng 60 - 70 cm, cây có nhiều quả nhỏ, quả có ở trên khắp thân cây. Sau khi thu hoạch về họ lấy cả thân cây bẻ gập làm 3 hoặc 4 lần cho vào vại sứ ngâm, cho đầy nước, ngâm trong vòng một đến ba ngày thì có thể vớt được, khi đó màu nước trong vại đã chuyển sang màu xanh đen.
Trang phục khi hành lễ của thầy cúng. |
Để cho màu được bền đẹp lâu phai, người Sán Chay lên rừng tìm cây chỉ thiên (chu chăm thoi), cây lau sau (bêng méo), cây dáp thanh (tạp thanh) và vỏ cây núc nác, cùng với củ nâu đỏ, khi tìm đủ mang về ngâm cùng cốt chàm khô. Sau một tuần thì bắt đầu thả vải vào ngâm cho nước ngấm đều khắp tấm vải, sau đó vớt vải ra phơi trên hai thanh cây dài. Vải nhuộm một lần có màu xanh nhạt dễ phai, cho vải vào ngâm lại nhiều lần nữa rồi đem phơi đến khi vải khô, nước chàm ngấm vào vải chuyển thành màu xanh đen, nhìn rất đẹp.
Công đoạn nhuộm vải là công đoạn khá công phu và mất nhiều thời gian, từ khâu lấy hạt giống cây chàm về ươm trồng, đến chăm sóc cho cây lớn lên, rồi thu hoạch cây mang về lấy làm nguyên liệu nhuộm, nhưng có lẽ vất vả hơn cả là việc lên rừng tìm những cây thuốc rừng về chộn lẫn chất nhuộm để màu của những tấm vải nhuộm được bền lâu phai. Cùng với những tấm vải màu xanh ánh lên dưới ánh nắng mặt trời, những đôi bàn tay của những người phụ nữ cũng xanh màu chàm.
Nét đặc sắc trong trang phục thầy cúng Sán Chay
Những thầy cúng thường có bộ trang phục riêng dành cho mỗi khi hành lễ, bộ trang phục của thầy cúng thường gồm có: áo, quần, mũ, gậy chống, tù và (sừng trâu), dép cao su phù hợp với từng trường hợp cúng cụ thể…
Áo của thầy cúng thường mặc theo cặp, áo bên trong màu trắng, ngắn hơn áo bên ngoài, may theo kiểu truyền thống với cúc và túi áo ở hai bên. Áo khoác bên ngoài khá cầu kỳ với lối may và họa tiết trang trí là những hình thêu tinh xảo, áo thường màu đen, chàm, dài quá gối người mặc, cổ áo là một đường may kéo dài từ trên xuống dưới, thường được thêu bằng chỉ màu đỏ cũng dài từ trên xuống dưới, thân áo thường được thêu trang trí hình rồng, bộ ấm chén bằng chỉ màu trắng, vàng, đỏ. Hai tay áo rộng, phía trên ngắn, rủ dần xuống phía dưới, cho đến hết thân áo, với nẹp tay áo là một đường thêu hoặc nẹp chỉ màu đỏ, bên dưới gấu áo là đường thêu chỉ màu đỏ xen lẫn màu vàng. Quần cùng màu với áo, ống rộng, đũng quần thường dài đến đầu gối, gấu quần dài chùm hết bàn chân.
Độc đáo chiếc mũ của thầy cúng Sán Chay. |
Khi đi hành lễ, hầu như không thầy cúng nào thiếu thanh kiếm, với niềm tin thanh kiếm sẽ giúp một phần trong việc bắt ma trừ tà.
Chiếc sừng trâu để thổi là vật bất ly thân của các thầy cúng khi đi hành lễ, mọi người tin rằng với tiếng thổi của nó sẽ làm cho tà ma sợ mà phải chạy đi nơi khác không dám bám vào người bệnh nữa.
Tái hiện lễ cầu mùa của người Sán Chay tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam |
Trải qua thời gian, trang phục truyền thống của người Sán Chay dần thay đổi hòa nhập với văn hóa chung của các tộc người khác. Mặc dù trang phục truyền thống đã có những biến đổi nhất định nhưng trang phục thầy cúng vẫn được người Sán Chay lưu giữ và bảo tồn những nét đẹp, những nét tinh túy nhất.
Tên tự gọi: Sán Chay
Tên gọi khác: Hờn Bán, Chùng, Trại...
Nhóm địa phương: Cao Lan và Sán Chỉ.
Dân số: 169.410 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng Cao Lan thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai) còn tiếng Sán Chỉ thuộc nhóm ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán Tạng).
Lịch sử: Người Sán Chay từ Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 400 năm.
Hoạt động sản xuất: Là cư dân nông nghiệp, làm ruộng nước thành thạo nhưng nương rẫy vẫn có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế và phương thức canh tác theo lối chọc lỗ, tra hạt vẫn tồn tại đến ngày nay. Ðánh cá có vị trí quan trọng. Với chiếc vợt ôm và chiếc giỏ có hom việc đánh cá đã cung cấp thêm nguồn thực phẩm giàu đạm, góp phần cải thiện bữa ăn.
Ăn: Người Sán Chay ăn cơm tẻ là chính. Rượu cũng được dùng nhiều, nhất là trong ngày tết, ngày lễ. Ðàn ông thường hút thuốc lào. Phụ nữ ăn trầu.
Mặc: Phụ nữ mặc váy chàm và áo dài có trang trí hoa văn ở hò áo và lưng áo. Thường ngày, chỉ dùng một thắt lưng chàm nhưng trong ngày tết, ngày lễ họ dùng 2-3 chiếc thắt lưng bằng lụa hay nhiễu với nhiều màu khác nhau.
Ở: Người Sán Chay cư trú ở các tỉnh Ðông Bắc nước ta. Họ sống trên nhà sàn giống nhà của người Tày cùng địa phương.
Phương tiện vận chuyển: Người Sán Chay thường đeo chiếc túi lưới ở sau lưng theo kiểu đeo ba lô.
Quan hệ xã hội: Trước Cách mạng tháng Tám, ruộng đất dần dần trở thành tư hữu hoá và phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt. Trong xã hội đã xuất hiện địa chủ và phú nông. Tuỳ theo từng địa phương, chính quyền thực dân phong kiến đặt ra một số chức dịch như quản mán, tài chạ, quan lãnh... Bên cạnh đó có tổ chức tự quản ở các bản do dân bầu ra gọi là khán thủ. Có nhiều dòng họ, trong đó có những dòng họ lớn, đông dân như Hoàng, Trần, La, Ninh. Các chi họ và nhóm hương hoả giữ vị trí quan trọng trong sinh hoạt cộng đồng.
Cưới xin: Trước khi đón dâu, lễ vật và trang phục của những người đi đón được tập trung lại ở giữa nhà để quan lang làm phép. Khi xuất phát, quan lang đứng dưới giọt giang giương ô lên cho mọi người đi qua. Trên đường về nhà chồng, cô dâu phải đi chân đất. Sau khi cưới, cô dâu vẫn ở nhà bố mẹ đẻ cho đến lúc sắp đẻ mới về ở nhà chồng. Ông mối được cô dâu, chú rể quý trọng, coi như bố mẹ và khi ông mối chết phải để tang.
Sinh đẻ: Trong vòng 42 ngày sau khi đẻ cấm người lạ vào nhà. Nếu ai đó lỡ vào mà sau đó trẻ sơ sinh bị ốm thì phải đem lễ vật đến làm lễ cúng vía. Sau khi đẻ 3 ngày tổ chức lễ ba mai.
Ma chay: Ðám ma do thầy tào chủ trì gồm nhiều nghi lễ chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ðạo giáo và Phật giáo. Ðặc biệt ngôi nhà táng được làm rất công phu và đẹp.
Làm nhà mới: Việc chọn đất, chọn hướng và chọn ngày giờ để làm nhà mới rất được người Sán Chay coi trọng.
Thờ cúng: Trong nhà người Sán Chay có rất nhiều bàn thờ. Ngoài thờ cúng tổ tiên, họ còn thờ trời đất, thổ công, bà mụ, thần nông, thần chăn nuôi... Phổ biến nhất là thờ Ngọc Hoàng, Phật Nam Hoa, Táo Quân.
Lễ tết: Họ ăn tết như người Tày.
Lịch: Người Sán Chay theo âm lịch.
Học: Người Sán Chay sử dụng chữ Hán trong cúng bái và chép bài hát.
Văn nghệ: Ngoài kể chuyện cổ tích, đọc thơ, người Sán Chay còn yêu thích ca hát. Phổ biến hơn cả là sình ca, lối hát giao duyên nam nữ gồm 2 loại: hát ở bản về ban đêm và hát trên đường đi hoặc ở chợ. Bên cạnh đó còn có ca đám cưới, hát ru...
Chơi: Ðánh cầu lông, đánh quay là những trò chơi phổ biến của người Sán Chay. Trong ngày hội có nơi còn biểu diễn trò "trồng chuối", "vặn rau cải".
Theo cema.gov.vn