Người Cơ Tu gìn giữ sắc màu thổ cẩm

Người Cơ Tu gìn giữ sắc màu thổ cẩm
Mỗi tối, khi núi rừng dần tĩnh lặng, những tiếng lách cách lại vang lên trong các gia đình người Cơ Tu ở thôn Giàn Bí (xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng). Đó là tiếng dệt vải của các chị em trong Tổ dệt thổ cẩm xã Hòa Bắc, những người tiên phong gìn giữ nghề dệt vải thổ cẩm của cha ông sau thời gian dài bị mai một.
Các sản phẩm vải thổ cẩm truyền thống xã Hòa Bắc trong một lần trưng bày tại Bảo tàng Đà Nẵng. Ảnh: Quốc Dũng - TTXVN
Các sản phẩm vải thổ cẩm truyền thống xã Hòa Bắc trong một lần trưng bày tại Bảo tàng Đà Nẵng. Ảnh: Quốc Dũng - TTXVN

 Học lại nghề của cha ông

Trong căn nhà cấp 4 đơn sơ, chị Đinh Thị Tin ngồi cần mẫn dệt từng sợi chỉ, các hoa văn thổ cẩm sặc sỡ nổi lên trên nền vải đen truyền thống. Khung cửi với những thanh gỗ dài, nhẵn, to nhỏ khác nhau, căng sẵn các sợi chỉ. Gọi là khung cửi, nhưng không hề có khung, các thanh gỗ được cố định bằng chính đôi chân của người dệt. Chị Tin ngồi trên sàn nhà, mắt chăm chú, lưng thẳng, chân duỗi dài cố định bộ khung cửi, đôi tay nhanh thoăn thoắt dệt vải.

Theo chị Tin, dệt vải thổ cẩm không hề dễ dàng, tốn rất nhiều thời gian và công sức. Đầu tiên là phải chọn màu và cuốn từng loại chỉ thành các cuộn tròn to, phải làm bằng tay và cuốn theo đúng cách để chỉ không bị rối khi dệt. Sau đó căng từng sợi chỉ lên các thanh gỗ của khung cửi, tùy theo loại hoa văn khác nhau sẽ có cách ghép màu chỉ khác nhau. Cuối cùng mới đến công đoạn dệt từng sợi chỉ để thành tấm vải. Trung bình phải mất từ 10-15 ngày mới dệt xong một mảnh vải. Tuy ngồi nhiều cũng có lúc thấy đau lưng, nhưng chị không hề thấy nản, mà còn rất hứng thú với công việc.

“Đây là mảnh vải mình dành may áo cho chồng, trước đó mình cũng đã dệt 2 mảnh vải dài để may váy cho mình và cô con gái. Cứ lúc nào không phải làm vườn, lên rẫy là mình lại ngồi dệt vải, càng dệt càng thấy yêu thích từng đường chỉ, từng nét hoa văn. Hồi nhỏ mình đã rất thích những chiếc váy thổ cẩm truyền thống từ thời ông bà, cha mẹ. Nhưng sau đó trong làng không còn ai biết dệt nữa, nên đến bây giờ được học lại mình rất vui” – chị Tin chia sẻ.

Do dệt vải hoàn toàn bằng tay, rất mất thời gian nên giá thành của sản phẩm cũng khá cao, người dệt cần được hỗ trợ tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm. Ảnh: Quốc Dũng - TTXVN
Do dệt vải hoàn toàn bằng tay, rất mất thời gian nên giá thành của sản phẩm cũng khá cao, người dệt cần được hỗ trợ tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm. Ảnh: Quốc Dũng - TTXVN

Chị Đinh Thị Tin là một trong 20 phụ nữ tiên phong tham gia Tổ dệt thổ cẩm xã Hòa Bắc, được thành lập năm 2018. Các chị được UBND xã đưa đi tham quan, học tập tại 2 tổ dệt ở huyện Đông Giang và Nam Giang (tỉnh Quảng Nam). Sau đó, các chị em trong Tổ lại được chính quyền hỗ trợ, mời các nghệ nhân về truyền lại nghề dệt thổ cẩm truyền thống trong 3 tháng. Tháng 6/2019, Tổ dệt thổ cẩm tiếp tục cử 5 chị em đi học nghề may, để may các sản phẩm từ vải thổ cẩm. Đến nay, tất cả chị em trong Tổ dệt thổ cẩm đều đã dệt thành thạo các hoa văn đơn giản và đang tiếp tục học hỏi nâng kỹ thuật, nghề dệt thổ cẩm của đồng bào Cơ tu ở Hòa Bắc đang dần khôi phục.

Tìm “đầu ra” cho sản phẩm thủ công truyền thống

Dù rất tâm huyết với nghề dệt của cha ông, nhưng các chị em phụ nữ trong Tổ dệt thổ cẩm vẫn chưa có nguồn thu nhập ổn định từ nghề thủ công truyền thống này. Chị Trần Thị Một, Tổ phó Tổ dệt thổ cẩm xã Hòa Bắc cho biết: Nghề này mất rất nhiều thời gian, để dệt may được một cái váy dài có khi mất cả tháng trời, tính ra ngày công phải vài triệu mới đủ. Nhưng không thể bán ra thị trường với giá đó, giá đắt quá sẽ không có ai mua được. Hiện giờ các chị em bán một cái khăn quàng giá 500.000 ngàn, áo khoác ngắn của nam giá 400.000 ngàn, váy dài nữ giá 1 triệu đồng nhưng vẫn còn đắt hơn nhiều so với vải thổ cẩm dệt công nghiệp. Sắp tới, các chị em trong Tổ sẽ phát triển thêm nhiều mặt hàng để phục vụ du khách như túi xách, quà lưu niệm... Tổ dệt thổ cẩm xã Hòa Bắc rất cần các cấp chính quyền hỗ trợ giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm đầu ra cho chị em yên tâm sản xuất.

Trong năm 2019, Tổ dệt thổ cẩm xã Hòa Bắc đã hoàn thành 2 đơn hàng lớn là 61 cặp học sinh bằng vải thổ cẩm cho một trường học đặt mua;  30 tấm rèm che phòng cho homestay của anh Đinh Văn Như (cũng trong thôn Giàn Bí). Còn lại, chủ yếu các chị em tự dệt vải và may quần áo truyền thống phục vụ nhu cầu của bản thân và gia đình.

Chị Đinh Thị Tin (thôn Giàn Bí, xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang) tự dệt và may quần áo truyền thống cho bản thân và gia đình. Ảnh: Quốc Dũng - TTXVN
Chị Đinh Thị Tin (thôn Giàn Bí, xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang) tự dệt và may quần áo truyền thống cho bản thân và gia đình. Ảnh: Quốc Dũng - TTXVN

Theo ông Thái Văn Hoài Nam, Chủ tịch UBND xã Hòa Bắc, những năm qua, địa phương rất nỗ lực khôi phục văn hóa cổ truyền và phát triển kinh tế - xã hội cho đồng bào Cơ Tu. Hiện nay đồng bào dân tộc Cơ Tu ở 2 thôn Tà Lang và Giàn Bí có 226 hộ với 773 nhân khẩu. Đồng bào rất phấn khởi trước sự quan tâm của Đảng và chính quyền địa phương, phát huy mọi nguồn lực, vận dụng tốt các chính sách kinh tế của Nhà nước để phát triển. Đồng bào đã tích cực, hăng hái trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống. Dự án GEF hỗ trợ vốn không lãi để các hộ thực hiện sinh kế đang trong giai đoạn khôi phục nghề dệt, phục vụ bảo tồn văn hóa đồng bào và phát triển du lịch cộng đồng.

Sau khi dạy lại nghề dệt thổ cẩm truyền thống cho đồng bào, các cấp chính quyền đã có nhiều hoạt động hỗ trợ tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm như: giới thiệu nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người Cơ Tu tại Ngày hội Khởi nghiệp - sáng tạo Đà Nẵng năm 2019, tham gia gian hàng tại Hội chợ Xuân Đà Nẵng 2020, mở các gian hàng tại các Lễ hội ở bảo tàng Đà Nẵng, thành phố Hội An (Quảng Nam)...

“Nhưng để bảo tồn, phát huy nghề dệt thổ cẩm truyền thống và mang lại hiệu quả kinh tế lâu dài cho đồng bào, vẫn rất cần sự quan tâm, hỗ trợ của các cấp chính quyền, và sự phối hợp tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.” - Chủ tịch UBND xã Hòa Bắc Thái Văn Hoài Nam cho biết thêm.
Quốc Dũng
Dân tộc Cơ Tu Dân tộc Cơ Tu

Tên tự gọi: Cơ Tu.

Tên gọi khác: Ca Tu, Ka Tu.

Dân số: 61.588 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), gần gũi với tiếng Tà Ôi, Bru - Vân Kiều. Chữ viết ra đời từ thời kỳ trước năm 1975, trên cơ sở dùng chữ La-tinh để phiên âm, nhưng nay ít người sử dụng.

Lịch sử: Người Cơ Tu cư trú lâu đời ở miền núi tây bắc tỉnh Quảng Nam, tây nam tỉnh Thừa Thiên Huế, liền khoảnh với địa bàn phân bố tộc Cơ Tu bên Lào. Họ thuộc số cư dân cư trú lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên.

Hoạt động sản xuất: Làm rẫy là chính, canh tác theo lối phát cây bằng rìu và dao quắm, rồi đốt, sau đó dùng gậy chọc lỗ để tra hạt giống, làm cỏ bằng cái nạo có lưỡi sắt uốn cong, tuốt lúa bằng tay. Rẫy đa canh, xen canh và cứ sau vài vụ lại bỏ hoá một thời gian dài trước khi canh tác tiếp. Mỗi năm chỉ gieo trồng một vụ.

Vật nuôi chủ yếu là trâu, lợn, chó, gà. Song, nguồn thực phẩm hàng ngày chủ yếu do hái lượm, săn bắn và đánh bắt cá đưa lại. Nghề thủ công chỉ có dệt vải và làm gốm (đồ đất nung) ở một số nơi phía giáp biên giới Việt - Lào; riêng đan lát phát triển rộng khắp. Kinh tế hàng hoá hạn hẹp, hình thức trao đổi vật đến nay vẫn thông dụng.

Phương tiện vận chuyển: Gùi đeo sau lưng nhờ đôi quai quàng vào hai vai. Có loại gùi đan dày, gùi đan thưa, với các cỡ thích hợp với người dùng. Ðàn ông có riêng loại gùi ba ngăn (gùi cánh dơi).

Ăn: Người Cơ Tu thường ngày ăn cơm tẻ, ngày lễ hội có thêm cơm nếp. Ăn bốc là tập quán cổ truyền. Họ thích các món nướng, ướp và ủ trong ống tre, uống nước lã (nay nhiều người đã dùng nước chín), rượu mía, rượu tà-vạk (chế từ một loại cây rừng, họ dừa) và rượu làm từ gạo, sắn v.v... Họ hút thuốc lá bằng tẩu.

Mặc: Người Cơ Tu ưa chuộng nhất bộ y phục bằng vải dệt nền đen có hoa văn bằng chì, thứ đến hoa văn bằng cườm trắng. Ðàn ông quấn khố, thường ở trần. Ðàn bà mặc váy ống. Nếu váy dài thì che từ ngực trở xuống, nếu váy ngắn thì thân trên mặc áo không ống tay; ngày lễ hội có thêm thắt lưng nền trắng mộc. Loại vải tấm lớn dùng để choàng, quấn và đắp.

: Người Cơ Tu sống tập trung ở các huyện Hiên, Giằng (tỉnh Quảng Nam) và các huyện Phú Lộc, A Lưới (Thừa Thiên Huế). Họ ở nhà sàn, mái uốn khum ở hai hồi tựa dáng mai rùa. Ðầu đốc nhà thường nhô lên một đoạn khau cút đơn giản. Trước kia trong nhà có nhiều cặp vợ chồng và con gái cùng sinh sống, thường là các gia đình của những anh em trai với nhau. Toàn bộ nhà ở trong làng dựng thành một vòng, quây quanh khoảng trống ở giữa. Mỗi làng có ngôi nhà chung gọi là Gươl, cao lớn và đẹp nhất. Ðó là nơi hội họp và sinh hoạt công cộng.

Người Cơ-tu xem Gươl như biểu tượng của tình đoàn kết cộng đồng. Ảnh Khánh Nguyên.jpg
Người Cơ-tu xem Gươl như biểu tượng của tình đoàn kết cộng đồng. Ảnh Khánh Nguyên

Quan hệ xã hội: Quan hệ cộng đồng dân làng khá chặt chẽ. Làng là một đơn vị dân cư trên một địa vực nhất định và riêng biệt, tự quản dựa vào tập tục, đứng đầu là ông "già làng" được nể trọng. Sự phân hoá xã hội chưa sâu sắc. Gia tài được xác định bằng chiêng ché, trâu, đồ đeo trang sức, vải.

Cưới xin: Nhà trai phải tốn của cải nộp cho nhà gái và tổ chức cưới. Việc lấy vợ phải trải qua các bước nghi thức: Hỏi, đính hôn, lễ cưới và sau này, khi đã khá giả thường tổ chức thêm lễ cưới lần nữa. Phổ biến hình thức con trai cô lấy con gái cậu, vợ goá lấy anh hoặc em chồng quá cố. Quan hệ hôn nhân một chiều: Nếu nhà A đã gả con gái cho nhà B thì nhà B không được gả con gái cho nhà A. Trước kia những người giàu thích tổ chức "cướp vợ".

Sinh đẻ: Người phụ nữ đẻ trong chòi dựng sau nhà hoặc đẻ ngay cạnh bếp lửa trong nhà, có vài phụ nữ giúp. Cái nhau bỏ vào vỏ bầu hoặc gói bằng vải, lá chuối chôn ở phía sau nhà. Sau 3 - 4 ngày hoặc một tuần sản phụ có thể đi làm. Qua vài ba tháng mới đặt tên cho đứa bé.

Ma chay: Quan tài độc mộc bằng loại gỗ tốt được chôn kín hoặc không lấp đất. Nhà khá giả thì quàn tử thi dài ngày hơn, đám ma có mổ trâu, nhà mồ làm bằng gỗ đẹp, cầu kỳ, có nhiều hình trang trí đẽo tạc và vẽ. Người Cờ Tu có tục "dồn mồ". Sau ít năm mai táng, khi tang gia đã chuẩn bị đủ điều kiện kinh tế, phải tập trung hài cốt của tang gia trong làng cùng tiến hành một ngày.

Thờ cúng: Trong đời sống cá nhân, gia đình và của làng, có rất nhiều lễ cúng gắn với sản xuất, sức khoẻ... Lễ cúng nhỏ chỉ cần tế bằng gà, thậm chí dùng trứng gà; lớn hơn thì dùng lợn; cao hơn nữa là dùng trâu; xưa kia cao nhất dùng máu người. Theo người Cờ Tu, đối với các siêu nhiên, máu con vật hiến sinh quan trọng đặc biệt. Làng có thể có vật "thiêng" (thường là hòn đá) được cất giữ ở ngôi nhà chung, như một thứ bùa. Một số cá nhân cũng có loại bùa này.

Lễ tết: Lớn hơn cả là lễ đâm trâu (của làng cũng như của từng nhà), lễ "dồn mồ". Ăn tết theo làng, vào khoảng Tháng Giêng, Tháng Hai dương lịch, sau mùa tuốt lúa, trước hết có các nghi lễ cúng quải tại nhà và nhà công cộng. Tết cũng là dịp ăn uống và đón tiếp khách vui vẻ. Nay nhiều nơi tổ chức Tết vào dịp tết Nguyên đán.

COTU2.jpg
Đồng bào Cơ Tu trong ngày hội. Ảnh: Khánh Nguyên

Lịch: Người Cơ Tu tính ngày trong tháng theo chu kỳ thay đổi hình dạng của mặt trăng. Căn cứ vào đó để họ đặt tên cho từng ngày. Cho nên, có những ngày cùng một tên gọi. Theo kinh nghiệm và quan niệm dân gian, có ngày trồng sắn, khoai sẽ nhiều củ; có ngày trồng cà, ớt sẽ sai quả; có ngày nên dựng nhà, cưới hỏi...

Văn nghệ: Người Cơ Tu có nhiều truyện cổ kể về sự tích, về xã hội con người, về sự phát sinh các dòng họ... Trong lễ hội thường trình diễn múa tập thể: nữ múa Dạ dạ, nam múa Ting tung. Nhạc cụ thường thấy là bộ chiêng 3 chiếc, cồng 1 chiếc, trống, sáo, đàn, nhị. Phụ nữ tài nghệ trong việc dệt các đồ án hoa văn bằng sợi màu trang trí với các hoạ tiết hình học phân bố và kết hợp khéo léo, chì và cườm trên vải. Nam giỏi trong điêu khắc trang trí ở nhà mồ, nhà công cộng, với những hình đầu trâu, chim, rắn, thú rừng, gà... cũng như trong việc vẽ hoa văn trang trí trên cây cột buộc con trâu tế. Người Cờ Tu có những điệu hát riêng của mình.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm