Độc đáo phong tục đón Tết của người Thái Lai Châu

Buổi chiều ngày cuối năm, dân bản ra suối tắm gội sạch sẽ để đón năm mới. Ảnh: Việt Hoàng
Buổi chiều ngày cuối năm, dân bản ra suối tắm gội sạch sẽ để đón năm mới. Ảnh: Việt Hoàng

Lai Châu là tỉnh vùng cao biên giới với 20 dân tộc sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc Thái chiếm khoảng 32%. Trải qua thời gian, người Thái Lai Châu hiện còn giữ được nhiều phong tục tập quán đặc sắc, độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, nổi bật phải kể đến phong tục đón Tết cổ truyền.

Đối với đồng bào Thái, quanh năm có rất nhiều ngày Tết nhưng chỉ ăn ba Tết chính là “Chiêng Xam” (Tết Thanh minh) tổ chức vào ngày 3/3 âm lịch, “Xíp Xí” tổ chức vào 14/7 âm lịch và quan trọng nhất là Tết Nguyên đán - Tết cổ truyền của toàn dân tộc Việt Nam, được người Thái gọi bằng cái tên là “Bươn Chiêng”.

Bản Vàng Pheo, xã Mường So, huyện Phong Thổ là cái nôi của đồng bào dân tộc Thái trắng Lai Châu. Mỗi độ Tết đến Xuân về, đồng bào dân tộc Thái tạm gác công việc đồng áng để dọn dẹp, sửa sang nhà cửa.

Tết Nguyên đán của người Thái có nhiều phong tục rất thú vị, mang đậm nét đặc trưng riêng có. Từ ngày 25-26 tháng Chạp, bà con bắt đầu dọn dẹp nhà cửa. Những người phụ nữ quét dọn mọi ngóc ngách dưới sàn, dưới sân, lối vào nhà, chuồng trại… Đàn ông là trụ cột trong gia đình sẽ dọn dẹp bàn thờ tổ tiên thường diễn ra trong hai ngày 28 và 29 tháng Chạp.

Trước khi dọn dẹp, người đàn ông chủ gia đình chuẩn bị hai cây mía buộc ở hai bên gian thờ, cây mía tượng trưng cho chiếc thang để đón tổ tiên về ăn Tết cùng con cháu. Sau đó, họ sẽ lau dọn khu vực bàn thờ, thay bát hương, lau chùi sạch sẽ, dán giấy đỏ xung quanh, sắp xếp lại tất cả mọi thứ trên bàn thờ, dâng lên đó hoa quả, bánh kẹo.

Đến ngày 29-30 tháng Chạp, người Thái thường mổ lợn để làm mâm cỗ cúng tổ tiên. Cùng lúc đó, người phụ nữ trong gia đình chuẩn bị các loại bánh chỉ dành riêng cho dịp Tết. Ba loại bánh không thể thiếu trong ngày Tết của người Thái gồm bánh nếp, khẩu xén hoặc bánh dầy, bánh chưng gù để dâng lên tổ tiên và làm quà cho con cháu. Nguyên liệu của bánh nếp rất đơn giản, có bột gạo nếp, đường phèn, đường cát, đỗ xanh hấp chín. Khẩu xén là món ăn truyền thống được làm từ gạo nếp, sắn nương và được cắt thành nhiều hình khác nhau, khi rán lên nở phồng nhìn rất bắt mắt. Bánh chưng gù được làm từ gạo nếp tan thơm, nhân đỗ xanh, thịt lợn và được gói giống hình một ngọn núi với phần lưng lồi lên, được bao quanh bởi các đường lạt chạy ngang thân bánh.

Ông Teo Văn Duyên, Bí thư Chi bộ, Trưởng bản Vàng Pheo, xã Mường So cho hay, thời gian đón Tết của đồng bào Thái từ ngày 30 tháng Chạp đến hết ngày 15 tháng Giêng. Theo phong tục truyền thống, vào buổi chiều ngày cuối năm, tất cả già trẻ, trai gái trong bản sẽ đến bên dòng suối Nậm So, Nậm Lùm tắm gội sạch sẽ để xua đi những điều không may trong năm cũ, sẵn sàng chào đón năm mới.

Độc đáo phong tục đón Tết của người Thái Lai Châu ảnh 1Buổi chiều ngày cuối năm, dân bản ra suối tắm gội sạch sẽ để đón năm mới. Ảnh: Việt Hoàng

Tối đến, nhà nhà chuẩn bị mâm chay bày lên bàn thờ. Cùng với hoa quả, nước ngọt, bánh kẹo và ba loại bánh, bánh bỏng, bánh dầy, bánh chưng gù. Theo quan niệm của đồng bào Thái, muốn có sức khoẻ dồi dào, làm ăn phát đạt, mùa màng bội thu, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà sinh sôi đầy đàn thì phải chú trọng đến việc thờ cúng tổ tiên. Vì vậy, cỗ cúng Tết phải đầy đủ, nhiều thịt, nhiều cá..., tổ tiên mới phù hộ cho làm nương được mùa, cái bụng mới no quanh năm.

Chủ gia đình thành kính thắp hương lên bàn thờ tổ tiên, sau đó tiếp tục cắm hương xung quanh nhà, dán giấy bạc ở cửa chính, cửa phụ, bể nước, chuồng trâu, chuồng gà cầu mong một năm mới may mắn, gia đình khỏe mạnh, chăn nuôi thuận lợi. Chị Mào Thị Niệm, ở bản Vàng Pheo, xã Mường So chia sẻ: Vào thời khắc Giao thừa, chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, chủ gia đình sẽ đi lấy nước mới ở giếng, mó nước đầu nguồn gọi là “Nậm Cuôn Luống” để các thành viên trong gia đình rửa mặt. Số nước còn lại dùng để luộc cổ lợn gọi là “Tao thầu” cùng một con gà chín đặt lên bàn thờ thắp hương đón năm mới. Đêm 30 Tết, người Thái thức trọn một đêm để đón Giao thừa, thường cả nhà không ai ngủ, đèn luôn sáng, hương nhang không được tàn và chú ý nghe ngóng xem trong đêm ấy, con gì kêu trước để phán đoán vận hạn cho năm mới.

Sáng mùng 1 Tết, đồng bào Thái không đi chúc Tết hàng xóm mà chỉ có con cháu trong gia đình đem rượu, mứt, bánh chưng đến Tết bố mẹ đẻ. Ngày mùng 2 đi Tết bố mẹ bên vợ. Trong những ngày Tết, mỗi nhà sẽ tổ chức ăn Tết vào một ngày, mời anh em họ hàng và hàng xóm thân thuộc. Trong bữa tiệc, mọi người chúc tụng, cầu cho nhau sức khỏe và may mắn trong cuộc sống. Từ ngày mùng 3 đến Rằm tháng Giêng các hoạt động vui chơi bắt đầu được tổ chức với các trò chơi dân gian như ném còn, én cáy, tó má lẹ, đánh cầu lông… và hòa mình vào các lời hát, điệu múa trên nền nhạc tính tẩu do chính các đội văn nghệ bản biểu diễn.

Độc đáo phong tục đón Tết của người Thái Lai Châu ảnh 2Vui xuân, đón Tết bà con trong bản chơi các trò chơi dân tộc như: Tó má lẹ, én cáy, ném còn... Nguồn: laichau.gov.vn

Nét độc đáo trong phong tục đón Tết của đồng bào Thái phải kể đến chính là sự xuất hiện thường xuyên của nước chè trên bàn thờ tổ tiên. Gia đình nào cũng vậy, vào sáng sớm, chiều tối các ngày Tết đều phải đun nước nóng, pha chè mời tổ tiên. Công việc này được duy trì đều đặn cho đến đến hết ngày 15/1 âm lịch.

Đồng bào dân tộc Thái Mường So nói riêng, Lai Châu nói chung có nhiều phong tục tập quán, nét văn hóa đặc sắc trong ngày Tết cổ truyền. Tuy nhiên, theo thời gian, những phong tục tập quán ấy đang dần bị mai một. Để gìn giữ, phát huy truyền thống văn hóa mà đồng bào Thái giữ gìn bao đời nay, những năm qua, nhiều gia đình nơi đây đã xây dựng và phát triển mô hình du lịch cộng đồng nhằm giới thiệu những truyền thống văn hóa của dân tộc Thái đến với du khách.

Ông Bùi Quang Lịch, Phó Chủ tịch UBND xã Mường So, huyện Phong Thổ cho biết, là cái nôi văn hóa của đồng bào dân tộc Thái trắng, công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được cấp ủy Đảng, chính quyền xã và bà con chung tay đoàn kết giữ gìn bản sắc dân tộc. Đặc biệt, tại bản văn hóa du lịch cộng đồng Vàng Pheo, vào dịp đón các đoàn khách du lịch, các đội văn nghệ đều tập trung đến giao lưu văn hóa văn nghệ, làm các món ăn truyền thống trong ngày Tết của đồng bào để mời du khách thưởng thức, lan tỏa nét văn hóa Thái Mường So đến với người dân cả nước.

Thời gian tới, tỉnh Lai Châu tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, cộng đồng trong việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái. Cùng với đó, tỉnh thực hiện hiệu quả các chương trình, nghị quyết, đề án về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc gắn với phát triển du lịch; tổ chức các chương trình văn hóa, văn nghệ thể thao, lễ hội truyền thống của đồng bào để không bị mai một.

Việt Hoàng – Đinh Thùy

(TTXVN)
Dân tộc Thái Dân tộc Thái

Tên tự gọi: Tay hoặc Thay

Tên gọi khác: Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tày Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ.

Nhóm địa phương: Ngành Ðen (Tay Ðăm), Ngành trắng (Tay Ðón hoặc Khao).

Dân số: 1.550.423 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).

Lịch sử: Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.

Hoạt động sản xuất: Người Thái sớm đi vào nghề trồng lúa nước trong hệ thống thuỷ lợi thích hợp được đúc kế như một thành ngữ - "mương, phai, lái, lịn" (khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật chướng ngại, đặt máng) trên các cánh đồng thung lũng. Họ làm ruộng cấy một vụ lúa nếp, nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm và đặc biệt bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải.

Cót xát rất phổ biến ở vùng người Thái, dùng để trải trên sàn trước khi xếp chiếu phục tay và các tấm đệm ngủ lên trên. Cót được đan bằng cây mạy loi, một loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao.

Ăn: Ngày nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính, gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chõ, đặt lên bếp, đồ thành xôi. Trên mâm ăn không thể thiếu được món ớt giã hoà muối, tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành... có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng... gọi chung là chéo. Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại thì buộc phải có nước nhúng lấy từ lòng non (nặm pịa). Thịt cá ăn tươi thì làm món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm; ăn chín, thích hợp nhất phải kể đến các món chế biến từ cách nướng, lùi, đồ, sấy, sau đó mới đến canh, xào, rang, luộc...

Họ ưa thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, bùi, ít dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng... hay uống rượu cần, cất rượu. Người Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và chạm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ. Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.

Mặc: Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn, đủ màu sắc, đính khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu... chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống; thắt eo bằng dải lụa màu xanh lá cây; đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Ngày lễ có thể vận thêm áo dài đen, xẻ nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết eo, vai phồng, đính vải trang trí ở nách, và đối vai ở phía trước như của Thái Trắng. Nữ Thái Ðen đội khăn piêu nổi tiếng trong các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ. Nam người Thái mặc quần cắt để thắt lưng; áo cánh xẻ ngực có túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái; cài khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến là đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong có một lần áo trắng, tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo kiểu mỏ rìu. Khi vào lễ cuốn dải khăn dài một sải tay.

: Ở nhà sàn, dáng vẻ khác nhau: nhà mái tròn khum hình mai rùa, hai đầu mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút; nhà 4 mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can; nhà sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh; nhà mái thấp, hẹp lòng, gần giống nhà người Mường.

Phương tiện vận chuyển: Gánh là phổ biến, ngoài ra gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ nay. ở dọc các con sông lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.

Quan hệ xã hội: Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường hay theo chế độ phìa tạo Tông tộc Thái gọi là Ðằm. Mỗi người có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu: Ải Noong (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể). (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể).

Cưới xin: Trước kia người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có 2 bước cơ bản:

Cưới lên (đong khửn) - đưa rể đến cư trú nhà vợ - là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể. Người Thái Ðen có tục búi tóc ngược lên đỉnh đầu cho người vợ ngay sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12 năm.

Cưới xuống (đong lông) đưa gia đình trở về với họ cha.

Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ theo tư thế ngồi, nhau bỏ vào ống tre đem treo trên cành cây ở rừng. Sản phụ được sưởi lửa, ăn cơm lam và kiêng khem một tháng; ống lam bó đem treo trên cành cây. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lung Ta đến đặt tên chi cháu.

Ma chay: Lễ tang có 2 bước cơ bản:

Pông: Phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng), thiếu (Thái Ðen).

Xống: gọi ma trở về ngụ ở gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.

Nhà mới: Dẫn chủ nhân lên nhận nhà Lung Ta châm lửa đốt củi ở bếp mới. Người ta thực hiện tại nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi điều ác thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi.

Lễ tết: Cúng tổ tiên ở người Thái Ðen vào tháng 7, 8 âm lịch. Người Thái Trắng ăn tết theo âm lịch. Bản Mường có cúng thần đất, núi, nước và linh hồn người làm trụ cột.

Lịch: Theo hệ can chi như âm lịch. Lịch của người Thái Ðen chênh với âm lịch 6 tháng.

Học: Người Thái có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu. Người Thái có nhiều tác phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học.

Văn nghệ: Người Thái có các điệu xoè, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên phong phú.

Chơi: Trò chơi của người Thái phổ biến là ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa xoè, chơi quay và quả mák lẹ. Nhiều trò chơi cho trẻ em.

Mỗi nhà người Thái thường có hai bếp, một bếp để tiếp khách, sưởi ấm, một bếp khác để nấu cơm. Chõ xôi (ninh đồng, chõ gỗ) được đặt trên 3 ông đầu rau bằng đá. Phía trên bếp có giàn để các thức cần sấy khô. Người Thái thường dùng ghế mây tròn để ngồi quanh bếp.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm