Từ lâu đời người Thái đã là chủ nhân của một vùng đất đai núi non hùng vĩ miền Tây Bắc từ dải Hoàng Liên Sơn đến vùng núi cánh cung sông Mã, sông Đà. Từ miền núi non hiểm trở với rừng già, thú dữ người Thái đã chinh phục các vùng thung lũng bao la lập nên kỳ tích văn minh lúa nước và sáng tạo ra những hình thức dân ca phong phú, hấp dẫn, sâu sắc, độc đáo.
Những cô gái Thái uyển chuyển trong điệu múa của dân tộc mình. |
Dân ca Thái là tiếng hát lời ca khái quát toàn diện về tình yêu của con người với con người, của con người với thiên nhiên với quê hương đất nước với cõi thực và cõi tâm linh.
Hát mo là những thể loại hát dân ca, dân gian Thái gắn liền với nghi lễ, diễn xướng, hội lễ, tang ma... Các bài dân ca nối tiếp hết cung bậc này đến cung bậc khác. Đó là những bài ca áng văn phản ánh lịch sử vũ trụ, mặt đất, con người, các dân tộc và thế sự, nhân tình thế thái, khuyên răn luân lí, đạo lí ở đời.
Dân ca Thái là dòng chảy cội nguồn tâm hồn. |
Có thể kể đến những tác phẩm đồ sộ sánh ngang hàng với sử thi đó là các áng mo Ẳm ệt luông kể chuyện khai sinh ra trời đất nhận thức về vũ trụ quan. Áng mo Ẳm ệt nọi kể về phát minh của người Thái cổ tìm ra lửa bước tiến kỳ diệu của con người từ thế giới mông muội tiếp cận thế giới văn minh. Áng mo Phay phác phạ: Mở họng trời là bài ca người Thái chinh phục thiên nhiên khai phá mở mang vùng đất cư trú. Áng mo Táy Ắm óc kể về nguồn gốc sinh ra người Thái. Áng mo Mời là những lời dặn dò của người đi vào cõi chết nhắn với người đang ở cõi sống.
Khắp Thái tinh chất của tình yêu con người
Trong kho tàng dân ca tình yêu của người Thái phải kể đến hai bản thiên tình sử bất hủ: Xống chụ xôn xao (Tiễn dặn người yêu) Tán chụ xiết xương (Tâm tình người yêu). Ở đây hình tượng nhân vật được khắc họa tài tình, giá trị nhân văn được bộc lộ sâu sắc, tình yêu hôn nhân người Thái biến ảo với nhiều cung bậc đa sầu đa cảm làm lay động bao thế hệ.
Những cô gái Thái vui tươi trong điệu nhảy sạp. |
Dân ca tình yêu chiếm dung lượng lớn trong đời sống người Thái Tây Bắc. Nổi bật là khắp tua, hát đối đáp, diễn xướng giao lưu trong sinh hoạt cộng đồng, tìm bạn tình. Hát khắp đối đáp có thể ở trong nhà, ngoài sân, trên sàn khuống, ngoài bãi, trong rừng, ruộng, nương vườn...
Đó thường là cách hai đôi bên nam nữ qua từng chặng: hát đi đường, hát mở cổng làng, hát thăm hỏi, đó, ướm... khi cuộc hát đến cao trào là nội dung hát giao duyên, hát kết đôi, hát cùng nhau chơi mường trời... cuối cuộc hát là cảnh lưu luyến hát chia tay ai về mường ấy hẹn lần hát khác lại hát khắp tình yêu.
Người Thái còn có lối hát khắp ngẫu hứng theo kiểu gieo kê, gieo vừng để thả thính, để bộc bạch cõi lòng. Khắp Sáng là lời hát dặn dò, tiễn biệt, hát Khắp Xênh là lối hát vui khoa trương ngoa dụ rất ngẫu hứng.
Nét đẹp, nét duyên và sự tài hoa của người Thái trong từng lời ca, điệu múa. |
Ngày nay, dẫu tiếp nhận nhiều loại hình văn hóa dân gian đa dạng sắc màu cuộc sống nhưng với người Thái dân ca tình yêu nguồn cội vẫn là dòng chảy trong tâm hồn con người. Bảo tồn phát huy và phát triển dân ca tình yêu dân tộc Thái vẫn là tình cảm và trách nhiệm của mọi cộng đồng người Thái Tây Bắc. Đó đích thực là nét đẹp, nét duyên và sự tài hoa quyến rũ của người Thái trong đời sống hôm nay và mai sau.
Tên tự gọi: Tay hoặc Thay
Tên gọi khác: Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tày Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ.
Nhóm địa phương: Ngành Ðen (Tay Ðăm), Ngành trắng (Tay Ðón hoặc Khao).
Dân số: 1.550.423 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Lịch sử: Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.
Hoạt động sản xuất: Người Thái sớm đi vào nghề trồng lúa nước trong hệ thống thuỷ lợi thích hợp được đúc kế như một thành ngữ - "mương, phai, lái, lịn" (khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật chướng ngại, đặt máng) trên các cánh đồng thung lũng. Họ làm ruộng cấy một vụ lúa nếp, nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm và đặc biệt bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải.
Cót xát rất phổ biến ở vùng người Thái, dùng để trải trên sàn trước khi xếp chiếu phục tay và các tấm đệm ngủ lên trên. Cót được đan bằng cây mạy loi, một loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao.
Ăn: Ngày nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính, gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chõ, đặt lên bếp, đồ thành xôi. Trên mâm ăn không thể thiếu được món ớt giã hoà muối, tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành... có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng... gọi chung là chéo. Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại thì buộc phải có nước nhúng lấy từ lòng non (nặm pịa). Thịt cá ăn tươi thì làm món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm; ăn chín, thích hợp nhất phải kể đến các món chế biến từ cách nướng, lùi, đồ, sấy, sau đó mới đến canh, xào, rang, luộc...
Họ ưa thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, bùi, ít dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng... hay uống rượu cần, cất rượu. Người Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và chạm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ. Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.
Mặc: Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn, đủ màu sắc, đính khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu... chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống; thắt eo bằng dải lụa màu xanh lá cây; đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Ngày lễ có thể vận thêm áo dài đen, xẻ nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết eo, vai phồng, đính vải trang trí ở nách, và đối vai ở phía trước như của Thái Trắng. Nữ Thái Ðen đội khăn piêu nổi tiếng trong các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ. Nam người Thái mặc quần cắt để thắt lưng; áo cánh xẻ ngực có túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái; cài khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến là đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong có một lần áo trắng, tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo kiểu mỏ rìu. Khi vào lễ cuốn dải khăn dài một sải tay.
Ở: Ở nhà sàn, dáng vẻ khác nhau: nhà mái tròn khum hình mai rùa, hai đầu mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút; nhà 4 mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can; nhà sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh; nhà mái thấp, hẹp lòng, gần giống nhà người Mường.
Phương tiện vận chuyển: Gánh là phổ biến, ngoài ra gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ nay. ở dọc các con sông lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.
Quan hệ xã hội: Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường hay theo chế độ phìa tạo Tông tộc Thái gọi là Ðằm. Mỗi người có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu: Ải Noong (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể). (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể).
Cưới xin: Trước kia người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có 2 bước cơ bản:
Cưới lên (đong khửn) - đưa rể đến cư trú nhà vợ - là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể. Người Thái Ðen có tục búi tóc ngược lên đỉnh đầu cho người vợ ngay sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12 năm.
Cưới xuống (đong lông) đưa gia đình trở về với họ cha.
Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ theo tư thế ngồi, nhau bỏ vào ống tre đem treo trên cành cây ở rừng. Sản phụ được sưởi lửa, ăn cơm lam và kiêng khem một tháng; ống lam bó đem treo trên cành cây. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lung Ta đến đặt tên chi cháu.
Ma chay: Lễ tang có 2 bước cơ bản:
Pông: Phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng), thiếu (Thái Ðen).
Xống: gọi ma trở về ngụ ở gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.
Nhà mới: Dẫn chủ nhân lên nhận nhà Lung Ta châm lửa đốt củi ở bếp mới. Người ta thực hiện tại nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi điều ác thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi.
Lễ tết: Cúng tổ tiên ở người Thái Ðen vào tháng 7, 8 âm lịch. Người Thái Trắng ăn tết theo âm lịch. Bản Mường có cúng thần đất, núi, nước và linh hồn người làm trụ cột.
Lịch: Theo hệ can chi như âm lịch. Lịch của người Thái Ðen chênh với âm lịch 6 tháng.
Học: Người Thái có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu. Người Thái có nhiều tác phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học.
Văn nghệ: Người Thái có các điệu xoè, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên phong phú.
Chơi: Trò chơi của người Thái phổ biến là ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa xoè, chơi quay và quả mák lẹ. Nhiều trò chơi cho trẻ em.
Mỗi nhà người Thái thường có hai bếp, một bếp để tiếp khách, sưởi ấm, một bếp khác để nấu cơm. Chõ xôi (ninh đồng, chõ gỗ) được đặt trên 3 ông đầu rau bằng đá. Phía trên bếp có giàn để các thức cần sấy khô. Người Thái thường dùng ghế mây tròn để ngồi quanh bếp.
Theo cema.gov.vn