“Nghệ thuật làm gốm của người Chăm” của Việt Nam được Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO) ghi vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp ngày 29/11/2022. Đây là tin vui và đồng thời cũng là động lực để đồng bào Chăm, tỉnh Ninh Thuận triển khai các giải pháp bảo tồn và phát triển nghề gốm tương xứng với sự ghi nhận đó. Phóng viên TTXVN phản ánh nội dung này qua hai bài viết với chủ đề “Bảo tồn và phát triển nghề làm gốm của người Chăm tỉnh Ninh Thuận”.
Bài 1: Tinh hoa nghề gốm
Gốm Chăm hiện nay còn hiện diện chủ yếu ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Trong đó, làng gốm Bàu Trúc, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận được xem như một bảo tàng gốm truyền thống của người Chăm các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ.
Độc đáo nghệ thuật làm gốm
Những ngày qua, khi thông tin “Nghệ thuật làm gốm của người Chăm” chính thức được UNESCO ghi vào Danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, chính quyền và người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận, đặc biệt là người Chăm ở làng gốm Bàu Trúc rất vui mừng, tự hào và tràn đầy hy vọng.
Vừa bỏm bẻm nhai trầu, cụ Trượng Thị Gạch, 78 tuổi, một trong những nghệ nhân lớn tuổi nhất ở làng gốm Bàu Trúc phấn khởi cho biết: “Tôi bắt đầu được mẹ truyền dạy làm gốm từ năm 15 tuổi, đến nay vẫn còn làm gốm. Cả cuộc đời gắn bó với nghề gốm với biết bao thăng trầm, cuối cùng tôi cũng được chứng kiến cái nghề truyền thống của dân tộc mình được công nhận là di sản thế giới. Chúng tôi mong muốn nghề làm gốm tiếp tục được quan tâm bảo tồn và phát triển hơn nữa”.
Những người lớn tuổi phấn khởi và hy vọng nghề truyền thống sẽ được kế tục, còn lớp trẻ thì nhắn nhủ nhau phải góp sức để phát huy hơn nữa tinh hoa nghề gốm truyền thống. Chị Đàng Thị Tuyết Hằng có hơn 30 năm gắn bó với nghề gốm chia sẻ, Nghệ thuật làm gốm của người Chăm được UNESCO ghi danh, bản thân chị và các thợ làm gốm ở làng Bàu Trúc rất mừng vì nghề gốm được thế giới quan tâm, công nhận. Các chị hy vọng sẽ tiếp tục nỗ lực giúp gốm Chăm khẳng định vị thế, thương hiệu trong, ngoài nước.
Làng gốm Bàu Trúc có tuổi đời hàng trăm năm, được xem là làng gốm cổ xưa nhất ở Đông Nam Á đến nay còn bảo lưu khá tốt kỹ thuật làm gốm hoàn toàn thủ công. Người Chăm làm gốm với kỹ thuật và quy trình thủ công truyền thống được các gia đình duy trì qua nhiều đời theo chế độ mẫu hệ “mẹ truyền – con nối”. Nơi đây được xem như một bảo tàng gốm truyền thống của người Chăm sinh sống tại Ninh Thuận và các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ.
Điều làm nên sự khác biệt của nghệ thuật làm gốm Chăm ở làng Bàu Trúc chính là phong cách làm gốm không sử dụng đến thiết bị bàn xoay. Người thợ vừa đi giật lùi vòng quanh chiếc trục đặt khối đất sét, vừa đều tay xoa, vuốt để tạo hình sản phẩm. Đến khi thành hình hài thô, người thợ chà láng sản phẩm bằng cách quấn tấm vải nhỏ được thấm nước vào bàn tay, từng ngón tay xoa đều nhẹ nhàng hay miết thật mạnh để tạo cạnh, tạo hình răng cưa, khắc vạch, sóng nước, hoa văn độc đáo lên bề mặt của sản phẩm.
Sản phẩm đã được tạo hình xong, để 2-3 ngày phơi cho khô mặt. Gốm không tráng men và được chất đống nung ngoài trời bằng củi và rơm trong 7-8 giờ ở nhiệt độ khoảng 800 độ C. Cách nung lộ thiên này nhằm tạo không gian cho sản phẩm, lửa nung kết hợp với gió thổi tạo nên các vết loang, các màu đặc trưng mang dấu ấn độc đáo của gốm Chăm như vàng đỏ, đỏ hồng, đen xám, nâu... Với một số dòng sản phẩm mỹ nghệ, nghệ nhân còn sử dụng nhiều cách tạo màu tự nhiên như rưới, phun nước hạt điều, nước cây thị. Trong khi loại tượng nghệ thuật lại có thể được om trấu hoặc củi để tạo những vết loang đen do khói lửa.
Do được làm thủ công hoàn toàn, từng sản phẩm một, nên gốm Chăm được ngợi ca như một sản phẩm “ấm bàn tay con người” nhất với đặc trưng riêng, mang đậm nét văn hóa Chăm. Điều này được thể hiện ở chỗ dù có cùng chủng loại sản phẩm nhưng không có chiếc nào giống y hệt chiếc nào như sản phẩm đúc bằng khuôn ở các làng nghề gốm khác. Ngoài ra, giữa các sản phẩm gốm Chăm luôn có sự khác biệt nhất định, phụ thuộc vào sức khỏe, cảm xúc, tâm trạng và đôi bàn tay tài hoa của người thợ với dấu ấn để lại trong từng sản phẩm luôn hiện hữu.
Gìn giữ di sản gốm Chăm
Gốm của người Chăm chủ yếu là đồ gia dụng, đồ dùng cúng lễ. Nhiều nghiên cứu đều có chung nhận định rằng các sản phẩm gốm có một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, sinh hoạt hằng ngày của mỗi gia đình và trong văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng người Chăm. Ở làng Bàu Trúc, tại các cơ sở sản xuất gốm dễ dàng bắt gặp dáng hình vũ nữ Apsara đậm chất nghệ thuật, thần Shiva qua tượng hoặc phù điêu, các kiểu sinh thực khí linga-yoni, cặp bình đực-cái, điệu múa các cô gái Chăm… cùng những tác phẩm mô phỏng đời sống văn hóa tâm linh khác.
Ông Phú Hữu Minh Thuần, Giám đốc Hợp tác xã gốm Chăm Bàu Trúc cho biết, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, làng gốm Bàu Trúc vẫn giữ nguyên những nét truyền thống trong phong cách làm gốm giữa dòng chảy thời gian. Những nghệ nhân làm gốm vẫn giữ được sự tinh túy và vẻ đẹp hoang sơ của gốm cổ cách đây hàng trăm năm. Giờ đây, “Nghệ thuật làm gốm của người Chăm” được UNESCO ghi vào danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, là điều hết sức đáng mừng và tự hào. Gốm Chăm từ nay sẽ được thế giới biết đến nhiều hơn.
Nghề làm gốm ở Bàu Trúc dành riêng cho phụ nữ; đàn ông chỉ đi hái củi, đào đất gánh rơm phụ giúp lúc nung gốm. Những năm gần đây, thị trường ưa chuộng những sản phẩm gốm có kích thước to lớn, nặng hàng chục kg, thậm chí nặng cả tấn nên trong làng Bàu Trúc ngày càng có nhiều nam thanh niên, đàn ông trung niên học nghề và làm nhiều sản phẩm. Cả làng hiện có trên 400 hộ gắn bó với nghề làm gốm, chiếm khoảng 70% số hộ đồng bào Chăm sinh sống ở địa phương, đã có 1 hợp tác xã và 12 cơ sở sản xuất, kinh doanh gốm.
Hiện nay, gốm Chăm Bàu Trúc đã có chỗ đứng trên thị trường với nhiều mặt hàng được sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày của đồng bào Chăm, cũng như nhiều dân tộc khác ở khắp các địa phương trên cả nước như: Lu, chum, vại, lò, ấm, nồi… Trong nền kinh tế thị trường, các nghệ nhân làng Bàu Trúc đã nghiên cứu nhu cầu thực tế để làm nên nhiều sản phẩm gốm mỹ nghệ phục vụ thương mại, du lịch, với hàng chục ngàn sản phẩm gốm các loại, giúp đời sống của người làm gốm được cải thiện nhiều hơn.
Những năm qua, được sự quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước và sự đoàn kết, nỗ lực vươn lên của người dân, làng Bàu Trúc có nhiều thay đổi. Những con đường dẫn vào làng được trải nhựa bê tông, những căn nhà khang trang ngày một nhiều hơn, những cơ sở, hợp tác xã sản xuất gốm luôn sẵn sàng đón khách tham quan. Có dịp đến đây, du khách sẽ được chứng kiến tận mắt cách các nghệ nhân làng gốm làm ra những tuyệt tác, cảm nhận được vẻ đẹp mộc mạc trong từng tác phẩm, để thêm trân trọng những giá trị tinh hoa nghề truyền thống được người Chăm ra sức giữ gìn qua không gian và thời gian.(Xem tiếp Bài 2: Đưa thương hiệu gốm Chăm vươn xa)
Nguyễn Thành
Tên gọi khác: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời...
Nhóm địa phương: Chăm Hroi, Chăm Poổng, Chà Và Ku, Chăm Châu Ðốc.
Dân số: 161.729 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Polynéxia (ngữ hệ Nam Ðảo).
Lịch sử: Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hoá rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chăm pa. Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh Thuận và Bình Thuận chủ yếu theo đạo Bà la môn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Ðốc, Tây Ninh, An Giang, Ðồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới.
Hoạt động sản xuất: Người Chăm có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu.
Nghề thủ công phát triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng duyên hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền nổi tiếng trong lịch sử.
Ăn: Người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất nung lớn, nhỏ. Thức ăn gồm cá, thịt, rau củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi, trồng trọt đem lại. Thức uống có rượu cần và rượu gạo. Tục ăn trầu cau rất phổ biến trong sinh hoạt và trong các lễ nghi phong tục cổ truyền.
Mặc: Nam nữ đều quấn váy tấm. Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ ngực cài khuy. Ðàn bà mặc áo dài chui đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông. Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền Trung, chỉ có chiếc áo dài chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên.
Ở: Người Chăm cư trú tại Ninh Thuận, Bình Thuận, ở nhà đất (nhà trệt). Mỗi gia đình có những ngôi nhà được xây cất gần nhau theo một trật tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ và các con nhỏ tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đó có kho thóc, buồng tân hôn và là chỗ ở của vợ chồng cô gái út.
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu và thường xuyên vẫn là cái gùi cõng trên lưng. Cư dân Chăm cũng là những người thợ đóng thuyền có kỹ thuật cao để hoạt động trên sông và biển. Họ làm ra những chiếc xe bò kéo, trâu kéo có trọng tải khá lớn để vận chuyển trên bộ.
Quan hệ xã hội: Gia đình người Chăm mang truyền thống mẫu hệ, mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội đẳng cấp, phong kiến. Ở những vùng theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ tiên. Cư dân Chăm vốn được phân thành hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dòng Niê và Mlô ở dân tộc Ê đê. Về sau thị tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Dưới thị tộc là các dòng họ theo huyết hệ mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út. Mỗi dòng họ lại có nhiều chi họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã hội Ấn Ðộ cổ đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt: không được thiết lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng một xóm, không ăn cùng một mâm...
Cưới xin: Phụ nữ chủ động trong quan hệ luyến ái. Hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Sính lễ do nhà gái lo liệu. Gia đình một vợ một chồng là nguyên tắc trong hôn nhân.
Ma chay: Người Chăm có hai hình thức đưa người chết về thế giới bên kia là thổ táng và hoả táng. Nhóm cư dân theo đạo Bà la môn thường hoả táng theo giáo luật, còn các nhóm cư dân khác thì thổ táng. Những người trong cùng một dòng họ thì được chôn cất cùng một nơi theo huyết hệ mẹ.
Nhà mới: Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận khi dựng nhà mới phải thực hiện một số nghi lễ cúng thần như: cúng Thổ thần để đốn gỗ tại rừng. Khi gỗ vận chuyển về làng phải làm lễ đón cây. Lễ phạt mộc được tổ chức để khởi công cho việc xây cất ngôi nhà.
Lễ tết: Người ta thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một chu kỳ năm như: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng. Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon katê được tổ chức linh đình tại các đền tháp vào giữa tháng mười âm lịch.
Lịch: Người Chăm có nông lịch cổ truyền tính theo lịch âm.
Học: Dân tộc Chăm có chữ từ rất sớm. Hiện tồn tại nhiều bia kí, kinh bằng chữ Chăm. Chữ Chăm được sáng tạo dựa vào hệ thống văn tự Sascrit, nhưng việc sử dụng chữ này còn rất hạn hẹp trong tầng lớp tăng lữ và quý tộc xưa. Việc học hành, truyền nghề, vẫn chủ yếu là truyền khẩu và bắt chước, làm theo.
Văn nghệ: Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da Paranưng, trống vỗ, kèn xaranai. Nền dân ca - nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca - nhạc cổ của người Việt ở miền Trung như trống cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế... Dân vũ Chăm được thấy trong các ngày hội Bon katê diễn ra tại các đền tháp.
Chơi: Trẻ em thích đánh cù và thả diều, đánh trận giả, thi cướp cờ, chơi trò bịt mắt bắt dê.
Theo cema.gov.vn