Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc

Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc

Là một trong 19 dân tộc trên địa bàn tỉnh Điện Biên, người Hà Nhì (thuộc hai nhóm Hà Nhì Lạ Mí và Hà Nhì Cồ Chồ) sinh sống tại hơn 20 bản thuộc 4 xã gồm: Sín Thầu, Chung Chải, Sen Thượng và Leng Su Sìn của huyện Mường Nhé - vùng cực Tây Tổ quốc. Vào dịp Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của người Hà Nhì, du khách về đây sẽ được hòa mình vào không gian văn hóa đa dạng, phong phú, nhưng mang đậm sắc thái đặc trưng của dân tộc Hà Nhì.

Thông lệ, người Hà Nhì tổ chức ăn Tết từ ngày Thìn (con Rồng) cuối cùng của tháng cuối năm. Năm nay, người Hà Nhì ăn Tết từ ngày 15/12 và kéo dài 3 ngày sau. Tết là dịp để những người con xa quê trở về sum họp bên gia đình, báo hiếu tiên tổ, các bậc sinh thành và vui chơi, thăm hỏi người thân. Mọi người cùng chúc nhau những điều may mắn, tốt đẹp, thắt chặt tình đoàn kết bản làng.

Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc ảnh 1Một góc bản làng Tả Cố Khừ (xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, Điện Biên). Để đón Tết cổ truyền, trước đó nhiều ngày, cộng đồng dân bản đã dọn dẹp, trang trí nhà cửa, bản làng thêm sạch đẹp, khang trang. Ảnh: Xuân Tiến – TTXVN  

Vượt hành trình gần 300 km, chúng tôi đến xã Sín Thầu (huyện Mường Nhé), nơi được mệnh danh là miền biên viễn của Tổ quốc. Sín Thầu là mảnh đất “chóp cùng” cực Tây Tổ quốc, nơi đây có đỉnh núi Khoan La San nằm trên dãy Pu Đen Đinh, có mốc số 0 “ba cạnh” (cao gần 1.900 mét so với mực nước biển) đẹp kỳ vĩ. Mốc số 0 là điểm phân định ranh giới giữa ba nước Việt Nam-Lào-Trung Quốc, được ví là nơi “một tiếng gà gáy, ba nước cùng nghe”. Xã Sín Thầu hiện có hơn 320 hộ dân, gần 1.400 nhân khẩu, thuộc 7 cộng đồng dân tộc, sinh sống ở 7 bản, trong đó người Hà Nhì chiếm khoảng 96% dân số toàn xã.

Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc ảnh 2Không gian văn hóa Tết Hồ Sự Chà. Ảnh: Xuân Tư – TTXVN

Ngày đầu tiên Tết cổ truyền Hồ Sự Chà, vào lúc hơn 3 giờ, khi con gà rừng vừa kịp gáy sáng, bản làng còn đang phủ đầy sương đêm và hơi lạnh thì những người trong gia đình ông Pờ Dần Xinh (bản Tả Cố Khừ, xã Sín Thầu) đã thức giấc, chuẩn bị dọn dẹp nhà cửa, sân, ngõ nhằm tạo cảnh quan, không gian khuôn viên ngôi nhà thêm sạch, khang trang. Thanh niên trong gia đình và dòng họ cùng đi bắt lợn, các chị em lo chế biến thực phẩm... Trời chưa tỏ mặt người, trong các bản Tả Cố Khừ, A Pa Chải, Tá Miếu, Tả Cố Ky, Lỳ Mà Tá, Pờ Nhù Khồ đã rộn ràng tiếng nói cười, tiếng giã bánh dày thậm thịch âm vang khắp bản, làng…

Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc ảnh 3Sau khi kết thúc bữa ăn sáng với món bánh trôi, các gia đình sẽ tiến hành mổ lợn để lấy thịt làm mâm cỗ thực hiện các nghi thức cúng lễ và tạo nguồn thực phẩm dự trữ cho gia đình, chế biến thành các món ăn tiếp đãi khách trong những ngày Tết.

Trong ngày đầu tiên dịp Tết Hồ Sự Chà, gia đình ông Pờ Dần Xinh và các gia đình người Hà Nhì tất bật làm bánh trôi (chà lẹ) để cúng tổ tiên. Đây là lễ thức quan trọng nhằm thông báo, mời tổ tiên về ăn Tết cùng con cháu, bản làng.

Trong tâm thức người Hà Nhì, bánh trôi là món ăn đầu tiên của tổ tiên khi về dự Tết cổ truyền, nên gia đình nào cũng làm bánh. Bánh trôi làm từ nguyên liệu bột nếp nương. Sau khi nhào kỹ với nước, bột nếp được nặn thành từng viên nhỏ rồi thả vào nồi nước sôi trên bếp lửa cháy to, đun đến khi bánh nổi lên là chín. Ngoài số bánh trôi kích thước nhỏ, chủ nhà sẽ nặn ra những chiếc bánh trôi to hơn, dáng hình tròn, đều để cúng tổ tiên. Tất cả số bánh trôi đều được rắc thêm chút bột vừng rang chín lên bề mặt.

Nghi thức dâng bánh trôi cúng tổ tiên thể hiện tấm lòng thành kính, sự tri ân, hiếu thuận của con cháu với các đấng sinh thành, bậc tiên tổ. Tiến trình cúng tổ tiên bằng món bánh trôi, chủ lễ sẽ dâng lễ đến các địa điểm trong gian thờ tổ tiên của gia đình để làm nhiều “lý” và khấn nguyện. Khi chủ lễ cúng xong, các gia đình sẽ ăn bánh trôi trong niềm vui, tiếng nói cười rôm rả.

Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc ảnh 4Giống như như người Kinh có tục bói chân gà trong dịp tết, tập tục bói gan, mật lợn đã được người Hà Nhì bảo lưu, trao truyền từ bao đời nay trong quá trình thiên di rồi định cư, lập bản ở vùng đất cực Tây của Tổ quốc và trở thành nét đẹp trong văn hóa tâm linh của cộng đồng người Hà Nhì. Ảnh: Xuân Tiến – TTXVN  

Sau đó các gia đình sẽ mổ lợn. Năm nay, gia đình ông Pờ Dần Xinh chuẩn bị một con lợn nặng hơn 100 kg để mổ đón Tết. Ông Xinh là người trực tiếp mổ lợn. Các con, cháu trong gia đình, dòng họ sẽ làm sạch lợn và những công việc cần thiết khác… 

Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc ảnh 5Thầy cúng thực hiện nghi thức dâng lễ vật cúng tế trong ngôi miếu trên địa bàn bản Tá Miếu (xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên). Hoạt động này diễn thường niên mỗi khi bản làng Tá Miếu chuẩn bị bước vào Tết Cổ truyền Hồ Sự Chà. Ảnh: Ảnh: Xuân Tiến – TTXVN  

Đối với người Hà Nhì, trước lúc mổ lợn, gia chủ sẽ phải thực hiện lễ thức quan trọng đó là vẩy một chút gạo, nước, rượu, muối (đựng riêng trong 4 bát sứ) lên mõm, miệng của con lợn và đọc thầm lời khấn. Quá trình mổ lợn, vị trí đặt dao mổ, cắt các bộ phận trên cơ thể lợn phải tuân thủ theo trình tự bắt buộc. Ngoài chức năng lấy thịt làm mâm cỗ thực hiện nghi thức cúng mời tổ tiên, người Hà Nhì mổ lợn còn nhằm tạo nguồn thực phẩm để dùng, đãi khách trong những ngày Tết. Đối với người Hà Nhì, dịp Tết, thịt lợn là lễ vật để sắp lễ, dâng cúng nên các gia đình đều phải có (dù ít hay nhiều).

Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc ảnh 6Nghi thức cúng tổ tiên với món bánh trôi là sự thể hiện tấm lòng thành kính, sự tri ân, hiếu thuận của con cháu với các đấng sinh thành, bậc tiên tổ. Ảnh: Xuân Tiến – TTXVN

Nét độc đáo trong văn hóa ẩm thực của người Hà Nhì là dịp Tết, họ chỉ mổ lợn trong ngày đầu tiên hoặc ngày thứ ba, không mổ vào ngày thứ hai. Người Hà Nhì quan niệm, ngày đầu tiên ăn Tết là ngày Thìn (con Rồng), còn ngày thứ hai là ngày Tỵ (con Rắn) - xung khắc với Hợi (lợn). Nếu mổ lợn vào ngày xung khắc thì sau này không gặp may trong chăn nuôi.

Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc ảnh 7Phụ nữ Hà Nhì giã bánh dày chế biến từ nguyên liệu nếp nương có đặc tính thơm, dẻo để sử dụng trong dịp Tết và làm quà biếu khách chúc Tết gia đình. Ảnh: Xuân Tiến – TTXVN

Dịp Tết Hồ Sự Chà, người Hà Nhì có tục bói gan và mật lợn. Ông Pờ Dân Xinh, bản Tả Cố Khừ, xã Sín Thầu, cho biết: Tập tục bói gan, mật lợn được người Hà Nhì bảo lưu, trao truyền từ bao đời nay và trở thành nét đẹp trong văn hóa của cộng đồng người Hà Nhì. Khi mổ lợn, bộ phận gan, mật sẽ được chủ nhà cẩn thận lấy ra đầu tiên và đặt trong một chiếc đĩa rộng để nơi sạch sẽ. Trực tiếp bói gan, mật lợn là người đàn ông lớn tuổi, có địa vị trong gia đình, được mọi người nể trọng, quý mến. Khi bói, nếu gan lợn lành lặn, sắc màu tươi, mật lợn căng đầy thì đó là điều tốt đẹp, viên mãn, sang năm mới gia đình gặp thuận lợi về chăn nuôi, anh em, con cháu luôn mạnh khỏe, vui vẻ, thuận hòa, đoàn kết. Nhìn vào màu sắc và hình dạng, trạng thái của gan, mật lợn, chủ nhà cũng “đoán” ra tình hình phát triển kinh tế của dòng họ, bản làng trong năm mới.

Lúc cắt thủ lợn, chủ nhà sẽ thực hiện những thao tác trên đầu lợn và đọc thầm lời khấn sang năm mới gia đình sẽ thuận lợi trong chăn nuôi để dịp Tết năm sau sẽ mổ con lợn to béo, nặng hơn. Khi mổ lợn xong, chủ nhà sẽ cắt mỗi bộ phận một ít đem đi chế biến rồi sắp đặt lên mâm cỗ với các lễ vật khác để cúng bái tổ tiên. Trong những lễ vật trên mâm cúng không thể thiếu món cháo gạo nấu cùng các loại thịt trên các bộ phận của con lợn đã mổ trước đó với tỷ lệ hợp lý.

Số thịt lợn còn lại sau khi mổ lợn sẽ được chủ nhà chế biến thành các món ăn để đón tiếp, đãi khách trong những ngày Tết và cất giữ, bảo quản sử dụng dần sau Tết.

Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc ảnh 8Thiếu nữ dân tộc Hà Nhì trong trang phục truyền thống tham gia hội xuân. Ảnh: Xuân Tư – TTXVN

Khi mâm cỗ cúng chuẩn bị xong, các thành viên trong gia đình sẽ mặc những bộ trang phục truyền thống đẹp nhất, mới nhất để thực hiện nghi thức cúng tổ tiên. Gia chủ là chủ lễ sẽ thực hiện lễ thức khấn, vái tổ tiên trước, sau đó lần lượt đến từng thành viên trong gia đình, dòng họ.

Ông Pờ Dần Xinh, bản Tả Cố Khừ, xã Sín Thầu, cho biết: Trước bàn thờ, trong không khí thành kính, linh thiêng, mọi người tri ân công ơn của tổ tiên đã có công tạo lập và xây dựng bản làng; mong cầu tiên tổ phù hộ cho mọi người trong gia đình sang năm mới mạnh khỏe, hoàn thành được ý nguyện của mình, mọi nhà đều đầm ấm, hạnh phúc, con cháu học hành chăm chỉ, mùa màng bội thu, bản làng ấm no.

Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc ảnh 9Thiếu nữ Hà Nhì mặc trang phục truyền thống. Ảnh: Xuân Tư – TTXVN

Trưa ngày đầu tiên Tết Hồ Sự Chà, các gia đình tổ chức ăn Tết và đón khách. Không khí bản làng trở nên rộn ràng, vui vẻ khi mọi người đều tìm đến nhau. Chủ nhà ra tận đầu ngõ bắt tay với khách, niềm nở mời vào nhà cùng ăn cơm, nâng chén rượu đầu Xuân và cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp nhất.

Người Hà Nhì vốn quý trọng tình cảm, niềm nở, thân tình trong giao tiếp nên dịp Tết Hồ Sự Chà, nếu du khách đến các bản miền sơn cước có cộng đồng người Hà Nhì sinh sống đều được người dân xem như người của bản và được tiếp đón nồng hậu. Đây là dịp để du khách cảm nhận rõ nhất cuộc sống bình dị, tâm hồn phóng khoáng, tính cách dễ gần, dễ mến của người Hà Nhì; đồng thời là dịp để khám phá, trải nghiệm nét tinh tế, độc đáo trong văn hóa ẩm thực của người Hà Nhì.

Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc ảnh 10Dịp Tết cổ truyền Hồ Sự Chà, các thiếu nữ lựa chọn cho mình những bộ trang phục truyền thống đẹp nhất, mới nhất để mặc đi chúc tết, tham dự lễ hội.

Theo ông Pờ Dần Xinh, tên địa danh bản Tả Cố Khừ gắn liền với vị trí ngã ba con đường qua trung tâm xã Sín Thầu. “Tả” là to hoặc ngã ba, “Cố Khừ” là đường đi chung. “Tả Cố Khừ” có nghĩa là ngã ba rộng lớn, đường đi chung. Là một trong những bản được “định danh” đầu tiên trên địa bàn xã nên người Hà Nhì tập trung tại đây rất đông so với 6 bản còn lại.

Bản hiện có hơn 100 hộ, hơn 540 nhân khẩu. Những năm qua, thực hiện đường lối của Đảng, Nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa, bản đã xây dựng được các quy ước, hương ước mới rất tiến bộ. Những “thiết chế” trong quy ước, hương ước đã xóa bỏ hủ tục lạc hậu, xây dựng bản làng ấm no, hạnh phúc.

Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc ảnh 11Thiếu nữ người Hà Nhì trong trang phục truyền thống khi đi chơi lễ trong dịp Tết cổ truyền Hồ Sự Chà. Ảnh: Xuân Tiến – TTXVN

Sang ngày thứ hai Tết Hồ Sự Chà, từ sáng sớm, bản làng sôi động bởi hoạt động giã bánh dày tại từng gia đình. Trong mẻ đầu tiên, ngoài việc nặn ra những chiếc bánh theo kích thước, hình dạng chung, chủ nhà làm ra một chiếc bánh tròn, đẹp nhất để dâng cúng tổ tiên trước khi mọi người ăn bánh. Sau đó, mọi người tiếp tục đi thăm hỏi, chúc Tết nhau trong niềm vui, ấm áp tình thân.

Các bà, các chị cùng nhau hát những câu dân ca, đối đáp, hát mừng năm mới như gửi gắm ước vọng vươn lên, niềm tin về cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong năm mới. Nam thanh, nữ tú thì mê mải trong các điệu múa truyền thống thể hiện sự rộn ràng, vui tươi sau những ngày lao động vất vả. Các em nhỏ say mê chơi trò chơi dân gian của dân tộc như đánh đu, bập bênh, đu quay, đánh cù, ném còn... Khắp các bãi đất rộng trong bản hay trên vùng thảo nguyên, hoạt động vui chơi đã tạo nên những bức tranh nhộn nhịp, tươi vui, đầy gam màu sinh động.

Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc ảnh 12Các thiếu nữ Hà Nhì chơi đu quay (“a chú”), đây là một trò chơi dân gian, mang đậm sắc thái văn hóa của cộng đồng người Hà Nhì. Ảnh: Xuân Tiến – TTXVN

Bước sang ngày thứ ba, không khí vui tươi của ngày Tết vẫn còn hiện hữu trong từng bản làng. Các gia đình vẫn còn nhộn nhịp bước chân của khách đến chúc Tết. Các hoạt động giao lưu văn hóa văn nghệ, trò chơi truyền thống vẫn tiếp diễn trên những bãi đất rộng trong bản. Khi màn đêm buông xuống, mọi người sẽ chia tay nhau trong bịn rịn, cùng hẹn nhau Tết năm sau lại gặp gỡ.

Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc ảnh 13Trưng bày và giới thiệu các đồ dùng sinh hoạt, trang phục truyền thống, sản phẩm nông nghiệp của người Hà Nhì. Ảnh: Xuân Tư – TTXVN
Vui Tết cổ truyền Hồ Sự Chà của dân tộc Hà Nhì nơi cực Tây của Tổ quốc ảnh 14 Tiết mục văn nghệ mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Hà Nhì tại lễ hội. Ảnh: Xuân Tư – TTXVN

Tết Hồ Sự Chà là tổ hợp các lễ thức tín ngưỡng tâm linh, hoạt động văn hóa, văn nghệ và trở thành nét đẹp truyền thống của dân tộc Hà Nhì. Giá trị nền tảng, cốt lõi được biểu đạt trong Tết là sự tri ân, tấm lòng hiếu thuận của con cháu Hà Nhì với tiên tổ. Tết Hồ Sự Chà đến nay vẫn hiệu hữu trong từng nhà, bản làng và từng con người Hà Nhì nơi miền biên cương cực Tây Tổ quốc.

 Xuân Tiến -Xuân Tư

(TTXVN)
Dân tộc Hà Nhì Dân tộc Hà Nhì

Tên tự gọi: Hà Nhi gia.

Tên gọi khác: U Ní, Xá U Ní.

Nhóm địa phương: Hà Nhì, Cồ Chồ, Hà Nhì La Mí, Hà Nhì đen.

Dân số: 21.725 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến (ngữ hệ Hán-Tạng), gần với Miến hơn.

Lịch sử: Cư dân Hà Nhì đã từng sinh sống lâu đời ở nam Trung Quốc và Việt Nam. Từ thế kỷ thứ 8, thư tịch cổ đã viết về sự có mặt của họ ở Tây Bắc Việt Nam. Nhưng phần lớn tổ tiên người Hà Nhì hiện nay là lớp cư dân di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm trở lại đây.

Hoạt động sản xuất: Người Hà Nhì sớm biết trồng lúa trên ruộng bậc thang. Họ giỏi việc khai khẩn tạo nên những thửa ruộng trên sườn núi dốc với những mương dẫn nước khéo léo. Họ quen dùng phân chuồng và phân tro trong canh tác lúa nước; đồng thời cũng làm nương cày hoặc nương cuốc để trồng ngô hoặc rau đậu, bầu, bí, bông, chàm...

Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo lối chăn thả tự nhiên. Ðàn trâu nuôi thả rông trong rừng có đến hàng trăm con.

Nghề trồng bông, dệt vải đảm bảo nhu cầu vải mặc truyền thống. Có nơi do khí hậu lạnh nên không trồng được bông phải đem các sản phẩm như chàm, đồ đan, gia cầm đổi lấy bông. Phụ nữ dệt vải trên khung cửi nhỏ, khổ 20 cm. Vải bền do kỹ thuật dệt đo được nhuộm chàm nhiều lần. Trồng chàm và nhuộm chàm là một hoạt động rất đặc sắc ở người Hà Nhì.

Hái lượm còn chiếm vị trí đáng kể trong đời sống hàng ngày.

Ăn: Người Hà Nhì quen dùng cả cơm nếp và cơm tẻ trong các bữa ăn hàng ngày. Thực phẩm chủ yếu được cung cấp từ săn bắt, đánh cá, hái lượm. Vào dịp lễ tết, họ thường làm nhiều loại bánh, ưa dùng thịt nướng, thịt xào và đặc biệt thích ăn cháo ám nấu với thịt gà hoặc thịt lợn.

: Họ quần cư chủ yếu trên dọc biên giới Việt-Trung, Việt-Lào thuộc các huyện Bát Xát (Lào Cai), Mường Tè (Lai Châu). Bộ phận làm ruộng bậc thang, nương định canh từ lâu đã sống định cư. Nhiều bản có tuổi trên 100 năm, đông tới 50, 60 hộ. Những nơi làm nương, bản thường phân tán rải rác theo nương.

Ða số cư dân ở nhà đất, tường trình chắc chắn, dày tới 30-40cm, thích hợp với khí hậu lạnh vùng núi cao. Tuỳ từng nơi, nhà có hàng hiên phía trước hoặc hàng hiên ở ngay trong nhà để tránh gió rét. Họ quen nấu cơm bằng chảo ở bếp lò xây trên nền đất.

Phương tiện vận chuyển: Người Hà Nhì phổ biến dùng gùi đeo qua trán, một số nơi dùng ngựa trong việc đi lại và chuyên trở.

Quan hệ xã hội: Tính cộng đồng trong làng bản biểu hiện khá tập trung không chỉ trong sản xuất mà cả trong lĩnh vực văn hoá tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng.

Gia đình nhỏ phụ quyền song người phụ nữ vẫn được trân trọng trong xã hội. Có nhiều họ khác nhau, mỗi họ lại chia ra thành nhiều chi. Tên chi gọi theo tên ông tổ.

Người Hà Nhì không có tục thờ cúng chung toàn dòng họ mà chỉ thờ cúng theo gia đình. Việc thờ cúng do con trai cả, dòng trưởng đảm nhận. Nếu dòng trưởng không có người thừa kế thì việc thờ cúng chuyển cho con trai út. Các thành viên trong gia đình, dù đã ra ở riêng, nếu bị chết phải đưa xác về quàn tại trước bàn thờ bố mẹ thì người quá cố mới được thờ cúng chung với tổ tiên.

Hàng năm vào tối 30 tết, một nghi lễ rất quan trọng trong gia đình được thực hiện. Ðó là lễ tưởng nhớ tổ tiên dòng họ, đọc tên từng tổ tiên và mọi người cùng nhắc lại. Tên từng người được gọi theo cách gọi phụ tử liên danh, tên cha nối với tên con, nên có vần điệu dễ nhớ. Có họ nhắc tới 71 tên gọi trong buổi lễ này. Có nơi nghi lễ này cũng được thực hiện trong lễ nhập quan cho người chết.

Cưới xin: Tuỳ từng vùng phong tục cưới xin khác nhau nhưng một điểm chung nhất là các cuộc hôn nhân do trai gái tự tìm hiểu. Ở vùng Bát Xát (Lào Cai), cưới qua nhiều bước. Sau ba lần dạm hỏi, lễ cưới thứ nhất được tổ chức nhằm đưa con dâu về nhà chồng. Lần cưới thứ hai ăn uống linh đình ở nhà gái. Lễ này chỉ diễn ra sau khi đôi vợ chồng làm ăn khá giả, lúc đó họ đã có con, cháu, có người 50-60 năm sau hoặc cho đến khi chết vẫn chưa tổ chức được lễ cưới này. Ở Tây Bắc, sau lễ hỏi, con rể đến ở rể. Nếu trả ngay tiền cưới thì không phải ở rể, lễ cưới được tổ chức ngay, từ đó con dâu mang họ của chồng.

Sinh đẻ: Phụ nữ Hà Nhì đẻ đứng. Ðể dễ đẻ họ có tục đập vỡ ống bương đựng nước cho nước toé ra hoặc thả ống bương nước trong có cái đục từ trên đỉnh nóc nhà xuống, đục bắn ra giống như đứa trẻ được đẻ ra. Có nơi sản phụ được uống nước tro của ruột voi với mong muốn sản phụ có sức mạnh như voi. Rau đẻ được chôn ở ngay sau cửa ra vào hay cột cạnh bếp lò.

Nhà có trẻ mới sinh được báo hiệu bằng chiếc nón úp trên cọc ở trước cửa, nếu cọc ở phía bên phải - sinh con gái, bên trái - sinh con trai.

Ma chay: Quan tài bằng thân cây khoét rỗng, có nắp đậy kín. Nơi đào huyệt được chọn bằng cách ném trứng, trứng vỡ ở đâu thì đào ở đấy. Kiêng chôn vào mùa mưa, vào thời điểm đó quan tài người chết được treo xuống huyệt nhưng không lấp, bên trên có nhà táng hoặc đặt trên giàn. Hết mùa mưa mới đem chôn quan tài có người chết.

Thờ cúng: Họ tin có linh hồn, thờ cúng tổ tiên, cúng bản và các nghi lễ nông nghiệp.

Lễ tết: Người Hà Nhì ăn tết năm mới vào đầu tháng 10 âm lịch. Trong năm còn có Tết cơm mới, Tết mồng năm tháng năm, rằm tháng 7.

Học: Người Hà Nhì chưa có chữ viết riêng, việc giáo dục chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống được truyền từ đời này qua đời khác.

Văn nghệ: Người Hà Nhì có nền văn học dân gian với nhiều thể loại như truyện thần kỳ, cổ tích, trường ca, ca dao, thành ngữ...

Dân ca, dân vũ là những hình thức văn nghệ được mọi lứa tuổi ưa thích.

Các loại nhạc cụ có trống, chiêng, đàn tính, đàn môi, sáo.

Chơi: Trẻ em Hà Nhì thích chơi các trò chơi đòi hỏi lòng dũng cảm, khéo léo như đấu vật, đuổi bắt, trốn tìm, chơi cù, đu quay.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm