Độc đáo phong tục ăn Tết của người Hà Nhì vùng biên giới Mường Tè

Độc đáo phong tục ăn Tết của người Hà Nhì vùng biên giới Mường Tè

Năm nay, đồng bào dân tộc Hà Nhì ở các xã vùng cao biên giới Ka Lăng, Thu Lũm, Tá Bạ, Mù Cả thuộc huyện Mường Tè (Lai Châu) nô nức ăn Tết cổ truyền bắt đầu ngày 21/11, tức ngày 7/10 âm lịch. Đây là dịp để mọi người nghỉ ngơi, vui chơi và các gia đình đi chúc Tết lẫn nhau sau một năm lao động, thu hoạch mùa vụ.

Độc đáo phong tục ăn Tết của người Hà Nhì vùng biên giới Mường Tè ảnh 1 Bản của người Hà Nhì ẩn hiện trong mây trên vùng núi cao biên giới ở huyện Mường Tè. Ảnh: Nguyễn Oanh -TTXVN

Đồng bào dân tộc Hà Nhì Lai Châu là một trong những dân tộc đón Tết sớm hơn so với Tết Nguyên đán của cả dân tộc Việt Nam. Ghi nhận của phóng viên tại bản Mé Gióng, xã Ka Lăng, không khí đón Tết của người dân rất rộn ràng, nhộn nhịp. Ai cũng phấn khởi chào đón một năm mới nhiều may mắn hơn. Các gia đình đều mổ lợn, gói bánh giầy, làm bánh trôi ăn Tết với nhiều phong tục độc đáo cùng những lễ hội đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Người Hà Nhì không ấn định cụ thể ngày ăn Tết hàng năm mà do các già làng, trưởng bản bàn bạc và thống nhất để áp dụng cho từng năm. Dựa trên các yếu tố thời tiết, khí hậu, mùa màng, khả năng kinh tế chung mà đưa ra ngày cụ thể. Thường vào khoảng tháng 11 dương lịch, Tết cổ truyền của người Hà Nhì sẽ diễn ra và còn được gọi là Cố Nhị Chà. Bởi đây là thời điểm nông nhàn, người dân Hà Nhì đã kết thúc mọi công việc đồng áng, mùa màng bội thu, chăn nuôi phát triển, có đủ điều kiện để ăn Tết vui vẻ.

Độc đáo phong tục ăn Tết của người Hà Nhì vùng biên giới Mường Tè ảnh 2Mỗi dịp Tết, lãnh đạo huyện Mường Tè đều xuống chung vui, tặng quà bà con Hà Nhì. Ảnh: Nguyễn Oanh - TTXVN

Tết của người Hà Nhì vùng biên giới Mường Tè có nhiều phong tục rất thú vị, mang đậm nét đặc trưng riêng. Ngày Tết của đồng bào dân tộc Hà Nhì bắt đầu từ ngày Thìn, vào đầu hoặc giữa tháng và kéo dài trong 12 ngày (kiêng kỵ không ăn trong 2 tháng âm lịch). Nhưng chỉ ăn Tết tập trung trong 5 ngày đầu, những ngày còn lại vui chơi, nghỉ ngơi và chờ đến đúng ngày Thìn tiếp sau để cúng tổ tiên, báo cáo bước sang mùa vụ mới.

Độc đáo phong tục ăn Tết của người Hà Nhì vùng biên giới Mường Tè ảnh 3 Sáng sớm, bà con đồng bào dân tộc Hà Nhì bắt lợn làm thịt ăn Tết cổ truyền. Ảnh: Nguyễn Oanh - TTXVN

Bà Gò Chu Cả, một người lớn tuổi ở bản Mé Gióng, xã Ka Lăng, huyện Mường Tè cho biết: Người Hà Nhì cho rằng ngày Tết phải đầy đủ, đầm ấm và vui vẻ nên cần chuẩn bị chu đáo. Từ trang phục truyền thống đến lương thực, thực phẩm, bánh trái đều tươm tất. Đặc biệt là các loại bánh truyền thống như bánh trôi, bánh giày… được các gia đình làm rất nhiều. Bởi vì bánh không chỉ để thờ cúng tổ tiên mà còn chia cho con cháu hưởng lộc ngày Tết và làm quà biếu khách khi đến chơi nhà.

Riêng bánh cúng tổ tiên, chủ nhà nặn ba chiếc to hơn bánh thường rồi đặt lên tấm lá chuối để mời tổ tiên về ăn Tết cùng con cháu. Lễ cúng vừa như lời tạ ơn cho một vụ mùa đã qua và vừa cầu xin cho một năm mới tốt lành, mưa thuận gió hòa, cây trái tốt tươi. Bánh để cúng phải có hạt lạc đã giã trộn lẫn nhân bánh, bởi theo quan niệm phải có nhiều hạt thì mùa vụ mới sẽ bội thu. Món bánh này được coi là món khai vị ngày Tết.

Độc đáo phong tục ăn Tết của người Hà Nhì vùng biên giới Mường Tè ảnh 4Ngày Tết cổ truyền, phụ nữ Hà Nhì làm bánh giầy. Ảnh: Nguyễn Oanh - TTXVN

Đêm đầu tiên của Tết được coi như đêm giao thừa. Đến sáng sớm ngày Thìn, nhà nhà thi nhau mổ lợn, vì người Hà Nhì quan niệm nhà nào mổ lợn xong sớm, thì sang năm sẽ phát tài phát lộc, cuộc sống no ấm, con cháu sum vầy. Nhà nào mổ con lợn to chứng tỏ năm vừa qua làm ăn tốt, mùa màng bội thu. Bởi thế, những con lợn mổ Tết thường là những con lợn đã được nuôi từ 1 - 2 năm, nhiều con nặng tới hơn một tạ.

Ông Chu Cha Chừ, bản Mé Gióng, xã Ka Lăng chia sẻ: Một trong những nét văn hóa tâm linh độc đáo không thể thiếu trong ngày Tết của người Hà Nhì là tục xem gan lợn. Họ nhìn vào lá gan lợn lành lặn, màu sắc tươi tắn, mật lợn căng đầy thì năm đó chăn nuôi phát triển, mùa màng bội thu, mọi người khỏe mạnh. Lợn mổ xong, cắt mỗi thứ một ít để cúng tổ tiên. Phần còn lại pha chế thành nhiều món và cắt từng miếng nhỏ chia cho con cháu, nhưng riêng đầu lợn thì treo lên để cúng sau.

Độc đáo phong tục ăn Tết của người Hà Nhì vùng biên giới Mường Tè ảnh 5Đồng bào Hà Nhì quây quần chuẩn bị Tết. Ảnh: Nguyễn Oanh - TTXVN
Độc đáo phong tục ăn Tết của người Hà Nhì vùng biên giới Mường Tè ảnh 6Vào ngày Tết cổ truyền của người Hà Nhì, mỗi gia đình đều làm thịt một con lợn. Ảnh: Nguyễn Oanh - TTXVN
Độc đáo phong tục ăn Tết của người Hà Nhì vùng biên giới Mường Tè ảnh 7Đối với người Hà Nhì, tục xem gan lợn rất quan trọng. Ảnh: Nguyễn Oanh - TTXVN
Độc đáo phong tục ăn Tết của người Hà Nhì vùng biên giới Mường Tè ảnh 8Người Hà Nhì quan niệm, xem gan lợn sẽ biết được năm mới có những điều tốt lành hay tai họa để phòng tránh. Ảnh: Nguyễn Oanh - TTXVN

Việc thờ cúng ngày Tết của dân tộc Hà Nhì cũng rất gọn nhẹ, không hương hoa, vàng mã, bày biện như một số dân tộc khác. Mâm cúng tổ tiên cũng rất đơn giản, chủ yếu là các sản vật do chính tay con cháu làm ra như bánh giầy, bánh trôi, rượu, muối ớt, cơm, thịt. Đặc biệt, việc cúng tổ tiên trong ngày Tết của người Hà Nhì do phụ nữ đảm nhiệm. Nơi thờ cúng bên nội của người Hà Nhì được đặt ngay bên trên đầu giường của vợ chồng gia chủ. Còn nơi thờ bên ngoại được đặt ở góc bếp.

Trong 5 ngày Tết, bà con Hà Nhì cùng nhau ăn uống, sum vầy và đi chúc Tết lẫn nhau với những lời chúc tốt đẹp nhất. Trong bữa cơm thân mật, họ cùng nhau ôn lại những câu chuyện về lai lịch dòng tộc hoặc công việc trong năm tới và chia sẻ kinh nghiệm mùa màng.

Những ngày Tết cổ truyền của người Hà Nhì, từ người già đến trẻ nhỏ, ai cũng diện quần áo mới rực rỡ sắc màu để đi chơi. Người dân Hà Nhì còn tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ tại khu vực nhà văn hóa bản. Không khí diễn ra rất sôi động với tiếng sáo bay bổng, tiếng chiêng rộn rã và các trò chơi dân gian như đánh cù, đá cầu lông gà... được các chàng trai, cô gái thể hiện say sưa nhiệt tình. Đây là dịp để những chàng trai, cô gái đua tài khoe sắc và cơ hội để các chàng trai, cô gái tìm hiểu kết duyên vợ chồng...

Độc đáo phong tục ăn Tết của người Hà Nhì vùng biên giới Mường Tè ảnh 9Phụ nữ Hà Nhì mặc trang phục cổ truyền nổi bật để đón Tết. Ảnh: Nguyễn Oanh - TTXVN

Đến ngày Thìn kế tiếp, tức sau 12 ngày ăn Tết người dân Hà Nhì sẽ làm một lễ cúng gồm thịt lợn, miếng gan, chén rượu, chén chè và một ít cơm hoặc cháo để báo cáo tổ tiên bước vào mùa vụ mới.

Bí thư Đảng bộ xã Ka Lăng, Phùng Xì Che cho hay: Ka Lăng là xã có đông đồng bào dân tộc Hà Nhì sinh sống tập trung. Nhằm lưu giữ những giá trị văn hóa dân tộc, xã Ka Lăng đã ban hành Nghị quyết về khôi phục các bản sắc văn hóa dân tộc Hà Nhì và được đồng bào hưởng ứng nhiệt tình, góp phần duy trì các nếp sống văn hóa. Những năm qua, đời sống của người dân ngày càng phát triển, giao thông đi lại thuận tiện, nhà cửa được xây dựng khang trang, góp phần cải thiện đời sống cho người dân và có điều kiện duy trì tục ăn Tết cổ truyền vào tháng 11 hàng năm.

Độc đáo phong tục ăn Tết của người Hà Nhì vùng biên giới Mường Tè ảnh 10Ngày Tết, người Hà Nhì quây quần bên mâm rượu, chúc tụng nhau mong một năm mới gặp nhiều may mắn, niềm vui. Ảnh: Nguyễn Oanh - TTXVN

Ông Kiều Hải Nam, Phó Chủ tịch UBND huyện Mường Tè cho biết: Thời gian qua, cấp ủy, chính quyền các cấp huyện Mường Tè luôn quan tâm góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa Tết cổ truyền của người dân tộc Hà Nhì. Hàng năm, huyện đã chỉ đạo phân công các xã rà soát đời sống của người dân Hà Nhì, những hộ dân không đủ điều kiện ăn Tết huyện đã hỗ trợ, đảm bảo mỗi người dân được ăn Tết đầm ấm. Cùng đó, Huyện ủy Mường Tè cũng thành lập các đoàn đến thăm, chúc Tết và chung vui cùng đồng bào Hà Nhì đang sinh sống trên địa bàn huyện.

Nguyễn Oanh

(TTXVN)
Dân tộc Hà Nhì Dân tộc Hà Nhì

Tên tự gọi: Hà Nhi gia.

Tên gọi khác: U Ní, Xá U Ní.

Nhóm địa phương: Hà Nhì, Cồ Chồ, Hà Nhì La Mí, Hà Nhì đen.

Dân số: 21.725 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến (ngữ hệ Hán-Tạng), gần với Miến hơn.

Lịch sử: Cư dân Hà Nhì đã từng sinh sống lâu đời ở nam Trung Quốc và Việt Nam. Từ thế kỷ thứ 8, thư tịch cổ đã viết về sự có mặt của họ ở Tây Bắc Việt Nam. Nhưng phần lớn tổ tiên người Hà Nhì hiện nay là lớp cư dân di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm trở lại đây.

Hoạt động sản xuất: Người Hà Nhì sớm biết trồng lúa trên ruộng bậc thang. Họ giỏi việc khai khẩn tạo nên những thửa ruộng trên sườn núi dốc với những mương dẫn nước khéo léo. Họ quen dùng phân chuồng và phân tro trong canh tác lúa nước; đồng thời cũng làm nương cày hoặc nương cuốc để trồng ngô hoặc rau đậu, bầu, bí, bông, chàm...

Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo lối chăn thả tự nhiên. Ðàn trâu nuôi thả rông trong rừng có đến hàng trăm con.

Nghề trồng bông, dệt vải đảm bảo nhu cầu vải mặc truyền thống. Có nơi do khí hậu lạnh nên không trồng được bông phải đem các sản phẩm như chàm, đồ đan, gia cầm đổi lấy bông. Phụ nữ dệt vải trên khung cửi nhỏ, khổ 20 cm. Vải bền do kỹ thuật dệt đo được nhuộm chàm nhiều lần. Trồng chàm và nhuộm chàm là một hoạt động rất đặc sắc ở người Hà Nhì.

Hái lượm còn chiếm vị trí đáng kể trong đời sống hàng ngày.

Ăn: Người Hà Nhì quen dùng cả cơm nếp và cơm tẻ trong các bữa ăn hàng ngày. Thực phẩm chủ yếu được cung cấp từ săn bắt, đánh cá, hái lượm. Vào dịp lễ tết, họ thường làm nhiều loại bánh, ưa dùng thịt nướng, thịt xào và đặc biệt thích ăn cháo ám nấu với thịt gà hoặc thịt lợn.

: Họ quần cư chủ yếu trên dọc biên giới Việt-Trung, Việt-Lào thuộc các huyện Bát Xát (Lào Cai), Mường Tè (Lai Châu). Bộ phận làm ruộng bậc thang, nương định canh từ lâu đã sống định cư. Nhiều bản có tuổi trên 100 năm, đông tới 50, 60 hộ. Những nơi làm nương, bản thường phân tán rải rác theo nương.

Ða số cư dân ở nhà đất, tường trình chắc chắn, dày tới 30-40cm, thích hợp với khí hậu lạnh vùng núi cao. Tuỳ từng nơi, nhà có hàng hiên phía trước hoặc hàng hiên ở ngay trong nhà để tránh gió rét. Họ quen nấu cơm bằng chảo ở bếp lò xây trên nền đất.

Phương tiện vận chuyển: Người Hà Nhì phổ biến dùng gùi đeo qua trán, một số nơi dùng ngựa trong việc đi lại và chuyên trở.

Quan hệ xã hội: Tính cộng đồng trong làng bản biểu hiện khá tập trung không chỉ trong sản xuất mà cả trong lĩnh vực văn hoá tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng.

Gia đình nhỏ phụ quyền song người phụ nữ vẫn được trân trọng trong xã hội. Có nhiều họ khác nhau, mỗi họ lại chia ra thành nhiều chi. Tên chi gọi theo tên ông tổ.

Người Hà Nhì không có tục thờ cúng chung toàn dòng họ mà chỉ thờ cúng theo gia đình. Việc thờ cúng do con trai cả, dòng trưởng đảm nhận. Nếu dòng trưởng không có người thừa kế thì việc thờ cúng chuyển cho con trai út. Các thành viên trong gia đình, dù đã ra ở riêng, nếu bị chết phải đưa xác về quàn tại trước bàn thờ bố mẹ thì người quá cố mới được thờ cúng chung với tổ tiên.

Hàng năm vào tối 30 tết, một nghi lễ rất quan trọng trong gia đình được thực hiện. Ðó là lễ tưởng nhớ tổ tiên dòng họ, đọc tên từng tổ tiên và mọi người cùng nhắc lại. Tên từng người được gọi theo cách gọi phụ tử liên danh, tên cha nối với tên con, nên có vần điệu dễ nhớ. Có họ nhắc tới 71 tên gọi trong buổi lễ này. Có nơi nghi lễ này cũng được thực hiện trong lễ nhập quan cho người chết.

Cưới xin: Tuỳ từng vùng phong tục cưới xin khác nhau nhưng một điểm chung nhất là các cuộc hôn nhân do trai gái tự tìm hiểu. Ở vùng Bát Xát (Lào Cai), cưới qua nhiều bước. Sau ba lần dạm hỏi, lễ cưới thứ nhất được tổ chức nhằm đưa con dâu về nhà chồng. Lần cưới thứ hai ăn uống linh đình ở nhà gái. Lễ này chỉ diễn ra sau khi đôi vợ chồng làm ăn khá giả, lúc đó họ đã có con, cháu, có người 50-60 năm sau hoặc cho đến khi chết vẫn chưa tổ chức được lễ cưới này. Ở Tây Bắc, sau lễ hỏi, con rể đến ở rể. Nếu trả ngay tiền cưới thì không phải ở rể, lễ cưới được tổ chức ngay, từ đó con dâu mang họ của chồng.

Sinh đẻ: Phụ nữ Hà Nhì đẻ đứng. Ðể dễ đẻ họ có tục đập vỡ ống bương đựng nước cho nước toé ra hoặc thả ống bương nước trong có cái đục từ trên đỉnh nóc nhà xuống, đục bắn ra giống như đứa trẻ được đẻ ra. Có nơi sản phụ được uống nước tro của ruột voi với mong muốn sản phụ có sức mạnh như voi. Rau đẻ được chôn ở ngay sau cửa ra vào hay cột cạnh bếp lò.

Nhà có trẻ mới sinh được báo hiệu bằng chiếc nón úp trên cọc ở trước cửa, nếu cọc ở phía bên phải - sinh con gái, bên trái - sinh con trai.

Ma chay: Quan tài bằng thân cây khoét rỗng, có nắp đậy kín. Nơi đào huyệt được chọn bằng cách ném trứng, trứng vỡ ở đâu thì đào ở đấy. Kiêng chôn vào mùa mưa, vào thời điểm đó quan tài người chết được treo xuống huyệt nhưng không lấp, bên trên có nhà táng hoặc đặt trên giàn. Hết mùa mưa mới đem chôn quan tài có người chết.

Thờ cúng: Họ tin có linh hồn, thờ cúng tổ tiên, cúng bản và các nghi lễ nông nghiệp.

Lễ tết: Người Hà Nhì ăn tết năm mới vào đầu tháng 10 âm lịch. Trong năm còn có Tết cơm mới, Tết mồng năm tháng năm, rằm tháng 7.

Học: Người Hà Nhì chưa có chữ viết riêng, việc giáo dục chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống được truyền từ đời này qua đời khác.

Văn nghệ: Người Hà Nhì có nền văn học dân gian với nhiều thể loại như truyện thần kỳ, cổ tích, trường ca, ca dao, thành ngữ...

Dân ca, dân vũ là những hình thức văn nghệ được mọi lứa tuổi ưa thích.

Các loại nhạc cụ có trống, chiêng, đàn tính, đàn môi, sáo.

Chơi: Trẻ em Hà Nhì thích chơi các trò chơi đòi hỏi lòng dũng cảm, khéo léo như đấu vật, đuổi bắt, trốn tìm, chơi cù, đu quay.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm