Mỗi đồng bào dân tộc thiểu số ở Quảng Ngãi đều có cách trang trí cây nêu riêng. Trong đó, nghệ thuật trang trí cây nêu của cộng đồng người Co ở huyện Trà Bồng có nét đặc sắc riêng, vừa được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Cây nêu của đồng bào Co ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với lễ hội ăn trâu – một sinh hoạt văn hóa dân gian nổi bật hàng ngàn năm nay.

Cũng như các dân tộc anh em khác ở miền Tây Quảng Ngãi, dân tộc Co có nhiều kiểu trang trí cây nêu như nêu lá chuối, nêu dù, nêu đu đủ, nêu phướn,... Nhưng cây nêu được bà con làm nhiều nhất là nêu phướn. Các loại cây nêu có chiều cao từ 5-15m, gồm 3 phần đế, thân và ngọn. Khắp chiều cao cây nêu được vẽ những dải hoa văn với ba màu truyền thống đỏ, đen, trắng, kết hợp với tạo hình mâm thần, gu thần, đơm cá, lá phướn. Đặc biệt, màu và tạo hình cây nêu đều sử dụng các sản phẩm từ tự nhiên như cỏ, cây, đá, vỏ ốc,...
Nghệ nhân nhân dân Hồ Ngọc An, xã Trà Thủy, huyện Trà Bồng cho biết, ông không biết nghệ thuật trang trí cây nêu xuất hiện từ khi nào, chỉ biết rằng trong các dịp ăn trâu, mừng lúa mới hay các lễ hội, ông bà đều làm cây nêu. “Sự kết hợp những hình vẽ với tạo hình trên cây nêu không chỉ đơn thuần là sự sáng tạo cái đẹp mang tính giải trí và thưởng thức, mà còn là sự gửi gắm ước nguyện đến thần linh, cầu mong phù hộ để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn”, ông An chia sẻ.
Đối với người Co, điểm đặc biệt trong tạo tác cây nêu là họ luôn sử dụng những con số lẻ 3-5-7-9 để trang trí. Vì theo quan niệm của họ, số lẻ là những con số may mắn. Nghệ nhân nhân dân Hồ Văn Đường, xã Sơn Trà, huyện Trà Bồng cho biết: Từ xa xưa, ông bà truyền lại rằng con số lẻ liên quan đến câu chuyện đi săn thú rừng, sau đó dùng thú này để cúng thần linh. Do vậy, các hình vẽ và các tạo hình trên cây nêu đều sử dụng những con số lẻ.
Theo các nghệ nhân và già làng, làm cây nêu có rất nhiều công đoạn, phần việc, đòi hỏi nhiều người cùng đóng góp công sức, thời gian, sự khéo léo, tài năng nghệ thuật. Để làm được cây nêu đẹp, đúng, thời gian chuyển bị khoảng một tháng cà cần sự tham gia của ít nhất 10 người. Việc quan trọng nhất là phải chọn được thân cây thẳng, tròn, đúng kích thước, chiều cao; khi vẽ hình phải đều, đẹp, màu không bị lem. “Theo truyền thống của đồng bào Co, khi làm cây nêu, thanh niên sẽ đảm nhận nhiệm vụ lên rừng lấy các loại cây; phụ nữ đập thân cây làm tua hoa, xỏ cườm; còn các nghệ nhân, già làng sẽ tạo hình, vẽ hoa văn,... Điều này thể hiện sự gắn kết cộng đồng của đồng bào Co trong nghệ thuật trang trí cây nêu”, ông Điệp cho hay.
Cây nêu không chỉ mang giá trị nghệ thuật điêu khắc mà còn có ý nghĩa tâm linh sâu sắc. Vì thế, đồng bào Co coi cây nêu là một phần không thế thiếu trong cuộc sống. Cây nêu được xem là cầu nối giữa đất và trời, là sự kết nối vô hình giữa con người với thần linh nhằm truyền tải những mong muốn, ước nguyện của dân làng một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất; thể hiện khát vọng sống vươn tới cuộc sống tốt đẹp.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Trà Bồng Trần Hoàng Vĩnh cho biết: Trên địa bàn huyện Trà Bồng hiện vẫn còn nhiều nghệ nhân, già làng giỏi trong lĩnh vực trang trí, làm và dụng nêu. Họ là những người có thể truyền dạy cho thế hệ trẻ cách sáng tạo, tiếp nối và duy trì nghệ thuật trang trí cây nêu. “Ủy ban nhân dân huyện đã chỉ đạo Phòng Văn hóa thông tin và các địa phương tăng cường tuyên truyền, khuyến khích các nghệ nhân, già làng tiếp tục truyền dạy nghệ thuật trang trí cây nêu cho thế hệ trẻ bao gồm truyền dạy trong cộng đồng và trường học; tổ chức các cuộc thi dựng nêu, tuyên truyền về ý nghĩa cây nêu để các nghệ nhân, già làng có cơ hội giao lưu. Các hoạt động giúp thế hệ trẻ hiểu hơn về ý nghĩa, giá trị văn hóa truyền thống của cây nêu, từ đó có ý thức giữ gìn nghệ thuật tạo hình cây nêu”, ông Vĩnh nhấn mạnh.
Đinh Hương
Tên tự gọi: Cor, Col.
Tên gọi khác: Cua, Trầu.
Dân số: 33.817 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), tương đối gần gũi các dân tộc khác trong vùng bắc Tây Nguyên và lân cận như: Hrê, Xơ Ðăng, Ba Na... Chữ viết ra đời từ thời kỳ trước năm 1975 trên cơ sở dùng chữ cái La-tinh. Hiện nay chữ viết này không không phổ biến nữa.
Lịch sử: Người Co cư trú rất lâu đời ở tây bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây nam tỉnh Quảng Nam.
Hoạt động sản xuất: Kinh tế rẫy là nguồn sống chủ yếu, lúa rẫy là nguồn lương thực chính. Canh tác theo hình thức phát rừng, đốt, chọc lỗ tra hạt giống, tuốt lúa bằng tay. Kỹ thuật xen canh - đa canh trên từng đám rẫy và luân canh giữa các đám rẫy. Trầu không và quế của người Co nổi tiếng lâu đời. Ðặc biệt quế quý và nhiều là một nguồn lợi lớn: quế rừng và quế trồng. Rẫy quế của mỗi gia đình là loại tài sản quan trọng, thường 10 năm trở lên mới được thu hoạch. Nhờ bán quế, các gia đình có tiền mua sắm các gia sản được ưa chuộng (cồng, chiêng, ché, trâu, v.v... và nay thì xe, đài, đồng hồ, xây nhà, đóng đồ gỗ), đồng thời cũng chi dùng vào việc ăn uống, mặc, v.v... Hình thức dùng vật đổi vật được ưa thích.
Chăn nuôi: Trâu, lợn, gà trước hết để cúng tế; chó hầu như nhà nhà đều có. Nghề dệt và rèn không phát triển. Ðồ đan đẹp và phong phú. Sản phẩm hái lượm và săn bắt có ý nghĩa không nhỏ trong đời sống người Co.
Ăn: Bữa ăn thông thường là cơm gạo tẻ, muối ớt, các loại rau rừng và thịt cá kiếm được. Trước kia, đồng bào quen ăn bốc. Ðồ uống là nước lã, rượu cần, nay nhiều người đã dùng nước chín, nước chè xanh, rượu cất. Tục ăn trầu cau chỉ được duy trì ở lớp người lớn tuổi, nhưng tục hút thuốc lá vẫn còn phổ biến.
Ở: Người Co sống tập trung ở Trà Bồng và Trà Mi thuộc tây bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây nam tỉnh Quảng Nam. Nhà sàn dài, cửa ra vào ở hai đầu hồi. Trong nhà chia dọc thành 3 phần: lối đi ở giữa, một bên được ngăn thành từng buồng nhỏ cho các gia đình sinh hoạt riêng, còn một bên dùng làm nơi sinh hoạt chung (tiếp khách, họp bàn, tổ chức lễ hội, ăn uống đông người, đan lát, vui chơi...). Xưa kia thường mỗi làng ở tập trung trong một vài ngôi nhà kiểu này, dài có khi hàng trăm mét, bên ngoài có rào chắn và bố trí vũ khí để phòng vệ. Gần đây, khắp vùng người Co phát triển trào lưu từng gia đình tách ra làm nhà ở riêng, nhà trệt, dựng theo kiểu nhà người Việt ở địa phương, đã có nhiều nhà lợp tôn, lợp ngói, cả nhà xây nữa.
Mặc: Ðồ mặc của người Co chủ yếu mua của người Xơ Ðăng và người Việt. Theo nếp truyền thống, nam đóng khố, ở trần, nữ quấn váy, mặc áo cộc tay; mùa lạnh thì khoác tấm vải choàng. Bộ quần áo dài với khăn xếp du nhập từ đồng bằng lên từng được dùng trưng diện trong ngày lễ hội, nhất là những bô lão khá giả. Ngày nay, quần áo người Việt được dùng lan tràn, váy còn thấy một số phụ nữ mặc nhưng đều dùng vải công nghiệp. Các loại vòng trang sức cũng chỉ bắt gặp thưa thớt, đơn giản, không dễ tìm được những phụ nữ quấn nhiều chuỗi hạt cườm quanh đầu, quanh cổ tay, cổ chân, trước ngực và quanh thắt lưng như trước kia nữa.
Phương tiện vận chuyển: Người Co có các loại gùi tự đan dùng để vận chuyển rất tiện lợi, thích hợp với điều kiện đất dốc, rừng núi và suối. Mọi thứ đều bỏ trong gùi và gùi được cõng trên lưng, có 2 quai quàng qua đôi vai.
Quan hệ xã hội: Mỗi làng có ông "già làng" được mọi người kính trọng và nghe theo. Dân làng sinh sống trên một địa vực ổn định có ranh giới, việc chuyển dịch cư trú của làng cũng chỉ trong vùng lãnh thổ ấy. Trong làng thường có quan hệ thân thuộc qua lại với nhau: hoặc về huyết thống, hoặc do hôn nhân. Tuy mỗi gia đình làm ăn riêng, chiếm hữu riêng đất rẫy, nhưng tính cộng đồng làng khá cao. Xã hội truyền thống Co đã nảy sinh giàu - nghèo khác nhau, nhưng chưa phát triển các hình thức bóc lột: nô lệ gia đình, cho vay nặng lãi...
Cưới xin: Hình thức hôn nhân cư trú đằng chồng là phổ biến. Phong tục cho phép nếu vợ chết có thể lấy tiếp em hoặc chị của vợ, nhưng vợ goá không thể lấy em chồng; nếu 2 anh em trai lấy 2 chị em gái thì phải anh lấy chị, em lấy em; nếu con gái nhà này đã làm dâu nhà kia thì 2 - 3 đời sau nhà kia mới gả con gái cho nhà này. Con cô - con cậu, con gì - con già, con có chung cha mẹ đều không được lấy nhau. Cùng một gốc sinh thành, nếu là anh em trai thì đời chắt của họ hoặc sau đó nữa mới có thể lấy nhau, song nếu là chị em gái hay một gái một bên trai thì cháu hoặc chắt của họ có thể lấy nhau. Ðám cưới đơn giản, gọn nhẹ, không tốn kém nhiều, chỉ là dịp mọi người uống rượu vui chứng kiến đôi trai gái thành vợ, thành chồng.
Ma chay: Quan tài gỗ, đẽo theo kiểu độc mộc. Người chết được chôn trong bãi mộ của làng, đặt không xa chỗ ở. Tang gia "chia của" cho người mới chết, đưa ra mộ không chỉ vật dụng và tư trang của người ấy, mà cả ché, chiêng...
Thờ cúng: Những đỉnh núi cao được người Co gọi là núi Ông núi Bà. Họ cho rằng có "thần linh" trú ngụ ở đó. Hệ thống "ma" (ka muych) và "thần" (kơi, ma) rất đông: ma người chết bình thường, ma người chết bất bình thường, ma quế, ma cây đa, ma nước, thần bếp lửa... Bởi vậy, người ra có nhiều kiêng cữ và cúng quải gắn với sản xuất và đời sống.
Lễ tết: Người Co có nhiều lễ, lớn nhất là lễ có đâm trâu tế thần - đây cũng là ngày hội lớn trong làng. Ngoài ra, tết gắn với sự kết thúc một mùa lúa rẫy là dịp sinh hoạt nhộn nhịp. Trong hai dịp đó, các món ăn dân tộc, nghệ thuật dân tộc và trang phục dân tộc được thể hiện tập trung, khơi dậy văn hoá truyền thống.
Lịch: Cách tính ngày tháng tương đương với âm lịch của người Việt, nhưng chỉ có 10 tháng, tiếp đến là thời gian nghỉ ngơi sau vụ canh tác. Bên cạnh đó, người Co coi trọng việc xác định ngày tốt, xấu để thực hiện các công việc khác nhau.
Văn nghệ: Ưa thích âm nhạc, dùng bộ chiêng 3 chiếc là phổ biến: nhạc cụ còn có trống, các loại đàn nhị. Múa chỉ xuất hiện trong lễ đâm trâu. Các điệu dân ca Xru (Klu), Agiới được lưu truyền rộng rãi. Vốn truyện cổ khá phong phú, có huyền thoại, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn... Nghệ thuật trang trí tập trung nhất ở cây cột lễ và cái "gu" trong lễ hội đâm trâu.
Theo cema.gov.vn
