Trong tín ngưỡng, văn hóa của đồng bào Mông, thổ cẩm truyền thống là hồn cốt dân tộc, đóng vai trò quan trọng trong đời sống. Thổ cẩm gắn bó với mỗi cộng đồng trong suốt vòng đời, từ lúc sinh ra, lập gia đình và những lúc cuối đời. Với mong muốn gìn giữ, phát triển các sản phẩm thổ cẩm, nghệ nhân vẽ sáp ong Lý Thị Ninh (xã Chế Cu Nha, huyện Mù Cang Chải) đã kết nối, mang thổ cẩm truyền thống của đồng bào Mông vươn ra thế giới và trở thành người "giữ hồn" thổ cẩm dân tộc.

Thay đổi định kiến giới
Sinh ra trong một gia đình có 9 anh chị em tại bản Pú Nhu, xã La Pán Tẩn, huyện Mù Cang Chải, cô gái người Mông sinh năm 1990 Lý Thị Ninh sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông đã lấy chồng, rồi ở nhà sinh con tại bản Trống Tông, xã Chế Cu Nha.
Đều đặn ngày 2 buổi lên nương, tối về cơm nước, tranh thủ những phút rảnh, chị Ninh xe lanh, dệt vải, thêu váy áo. Có lẽ vì cuộc sống vất vả nên nhìn chị già dặn hơn nhiều so với tuổi. Cuộc sống trôi qua cùng ruộng nương, mưa nắng với thu nhập không có gì ngoài hạt lúa, bắp ngô, chị Ninh cảm thấy bản thân cần thay đổi để tốt hơn.
Chị Lý Thị Ninh chia sẻ, từ xưa, phụ nữ Mông không có tiếng nói trong gia đình và không được làm chủ kinh tế. Thấy cảnh chị em vất vả nhưng lại không dám nghĩ đến chi tiêu cho riêng mình, chị Ninh ấp ủ hy vọng một ngày nào đó chị sẽ làm thay đổi định kiến giới, để mỗi phụ nữ Mông cũng có thể kiếm thu nhập và làm chủ kinh tế gia đình.

Cơ duyên đến với chị Ninh vào tháng 3/2009, đại diện Trung tâm Nghiên cứu, Liên kết và Phát triển thủ công mỹ nghệ (Craft Link) thấy phụ nữ Mông nơi đây mặc váy áo dân tộc thủ công rất đẹp, nên đã làm việc với Hội Phụ nữ huyện Mù Cang Chải thành lập một nhóm thêu dệt.
Sản phẩm được Trung tâm bao tiêu, bán ra trong, ngoài nước. Lúc này, chị Ninh nghĩ cơ hội đến với bản thân để khẳng định phụ nữ cũng làm chủ được kinh tế. Chị Ninh xin chồng và gia đình cho tham gia nhóm để có thêm thu nhập. Lúc đầu người thân chưa ủng hộ nhưng chị vẫn kiên trì giải thích sau đó cũng được đồng tình.

Đến cuối năm 2009, “Nhóm thổ cẩm Mông” được thành lập. Chị Ninh có kiến thức hơn nên được cử làm đại diện cho nhóm khi mới 19 tuổi. Từ đó, cô gái trẻ Lý Thị Ninh thay mặt nhóm nhận đơn hàng, mua nguyên vật liệu, chi trả cho chị em. Năm đầu, Trung tâm hỗ trợ nguyên vật liệu cho chị em làm, sau một năm có quỹ thì chị em tự chủ động làm.
Tạo thu nhập cho chị em
Để duy trì công việc thường xuyên cho chị em, ngoài đầu mối Trung tâm Craft Link, chị Lý Thị Ninh đã lăn lộn các nơi để tìm kiếm thêm thị trường.
Cứ cuối tuần, hai vợ chồng chị Ninh lại chất hàng hóa lên xe máy, rong ruổi các chợ Sa Pa (Lào Cai), Hà Giang và hội chợ ở Hà Nội để bày bán, giới thiệu sản phẩm. Ban đầu, mọi người chỉ xem chứ chưa ai đặt hàng, chị tiếp tục kiên trì tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác rồi có người đặt hàng.

Sản phẩm nhóm làm ra ngoài váy áo, trang phục nam giới còn có vỏ gối, túi, ví, khăn trải bàn, ba lô, con vật, móc treo chìa khóa, dây buộc tóc, túi đeo, hoa tai… Tất cả những sản phẩm trên được làm từ cây lanh trồng trên nương, qua bàn tay khéo léo và sự tỉ mẩn của phụ nữ Mông mà thành sợi lanh dệt vải.
"Nhóm thổ cẩm Mông ngày" càng lớn mạnh. Từ “Nhóm thổ cẩm Mông” ban đầu với 10 thành viên dần trở thành “Tổ sản xuất thổ cẩm”, rồi “Tổ hợp tác thổ cẩm truyền thống dân tộc Mông” và đến Hợp tác xã thêu dệt thổ cẩm Mông Style với gần 50 thành viên trong huyện.
Hợp tác xã hiện có trụ sở tại bản Dề Thàng, xã Chế Cu Nha, sản phẩm có mặt ở thị trường Hà Nội, Lào Cai, Hà Giang và các nước Pháp, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ…

Năm 2024, Hợp tác xã thêu dệt thổ cẩm Mông Style thu về gần một tỷ đồng, trừ các khoản chi phí, chị em có thu nhập bình quân từ 3-5 triệu đồng/tháng. Con số này chưa lớn nhưng là điều mơ ước với phụ nữ Mông nơi đây.
Chị Hờ Thị Dê, thành viên Hợp tác xã thêu dệt thổ cẩm Mông Style phấn khởi, từ khi tham gia vào Hợp tác xã, chị em có một khoản thu nhập riêng, có tiền mua đồ đạc, cho con ăn học và đặc biệt có thể tự “làm đẹp” cho mình. Cuộc sống tươi đẹp này nhờ vào công lớn của chị Lý Thị Ninh, người phụ nữ không chỉ giúp chị em có thu nhập mà còn giúp đồng bào bảo tồn giá trị văn hóa thổ cẩm.
Giữ gìn văn hóa thổ cẩm
Trong văn hóa đồng bào Mông, khi người con gái sinh ra sẽ được mẹ dạy cách thêu thùa. Chị Lý Thị Ninh cho biết, người Mông quan niệm, người con gái chỉ có giá khi biết thêu thùa, khâu vá. Do đó, nghề thêu dệt thổ cẩm từ lâu gắn liền với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Để tạo ra những sản phẩm thổ cẩm hay bộ trang phục độc đáo thì phải qua nhiều công đoạn, đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo của đôi bàn tay người phụ nữ Mông như trồng lanh, xe sợi, in sáp, nhuộm chàm và thêu thùa.

Hiện nay, nhiều mặt hàng của Trung Quốc được bày bán trong huyện với mẫu mã phong phú và giá thành rẻ, nguy cơ mai một nghề thổ cẩm truyền thống. Nhằm lưu giữ nghề thổ cẩm cho thế hệ mai sau, chị Ninh thường xuyên tuyên truyền, vận động chị em dạy cho con, cháu; đồng thời kết hợp với các trường học cho học sinh tập thêu. Hàng năm, có hàng trăm lượt học sinh đến Hợp tác xã trải nghiệm học thêu và tìm hiểu nghề thổ cẩm truyền thống dân tộc.
Trải qua gần 16 năm, chị Lý Thị Ninh trong mắt người dân Mù Cang Chải là bông hoa đẹp của bản Mông, người "giữ hồn" thổ cẩm truyền thống của đồng bào.

Với những nỗ lực, năm 2022, chị Lý Thị Ninh được tặng danh hiệu Nghệ nhân trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể loại hình tri thức nhân gian và nhận được nhiều Bằng khen của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Yên Bái và Giấy khen của huyện Mù Cang Chải.
Đánh giá về nghệ nhân Lý Thị Ninh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Mù Cang Chải Khang Thị Mào cho hay, Mù Cang Chải là huyện vùng cao của tỉnh với trên 90% đồng bào Mông sinh sống. Toàn huyện có trên 12.000 hội viên phụ nữ. Trong đó, chị Lý Thị Ninh là tấm gương phụ nữ người Mông tiêu biểu của huyện. Chị mạnh dạn đứng ra làm chủ kinh tế gia đình, góp phần làm thay đổi cuộc sống của phụ nữ trong bản. Chị còn sáng tạo hoa văn, truyền dạy nghề thổ cẩm truyền thống cho chị em các xã, thị trấn trong huyện và các tỉnh lân cận...
Đinh Thùy
Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo.
Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.
Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo.
Dân số: 1.068.189 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao.
Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu...
Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.
Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.
Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép. Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.
Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ.
Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.
Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.
Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.
Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.
Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.
Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Ở: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.
Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.
Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.
Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.
Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.
Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.
Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.
Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ...
Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.
Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.
Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.
Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.
Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.
Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).

Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.
Theo cema.gov.vn
