Hòa Bình là vùng đất có nhiều dân tộc cùng chung sống, trong đó chủ yếu là dân tộc Mường, chiếm hơn 63% dân số. Nơi đây nổi tiếng với bốn vùng Mường cổ “Bi, Vang, Thàng, Động” cùng sự hiện diện của “Văn hóa Hòa Bình” tồn tại trên 10.000 năm. Theo dòng chảy thời gian, dân tộc Mường ở Hòa Bình đã sáng tạo và gìn giữ được một nền văn hóa phong phú và đa dạng...
Nét độc đáo riêng có của văn hóa Mường
Người Mường ở Hòa Bình sinh sống tập trung tại các huyện: Tân Lạc, Lạc Sơn, Cao Phong, Kim Bôi và Lương Sơn. Trải qua nhiều thế hệ, người Mường nơi đây luôn tự hào là cái nôi của nền “Văn hóa Hòa Bình”; nơi bảo tồn, lưu giữ hàng trăm chiếc trống đồng, hơn 5.000 chiếc chiêng quý giá; nơi sản sinh ra sử thi “Đẻ đất - Đẻ nước”; nơi ấm tình người trong các thuần phong mỹ tục vẫn còn đậm nét văn hóa người Việt cổ.
Nằm yên bình tại xã Phong Phú, huyện Tân Lạc, xóm Lũy Ải với 100% dân số là người Mường đã trở thành biểu tượng sống động cho nền văn hóa phong phú và đặc sắc của dân tộc Mường. Đây có thể xem là làng Mường cổ đẹp nhất của tỉnh Hòa Bình bởi người dân vẫn còn lưu giữ những nếp nhà sàn truyền thống.
Ông Bùi Văn Huynh, trưởng xóm Lũy Ải cho biết, nhà sàn là nét đặc trưng nhất của văn hóa Mường. Nhà sàn được xây dựng 3 tầng, tầng dưới là nơi nhốt gia súc, gia cầm và để các nông cụ sản xuất, tầng giữa để nghỉ ngơi sinh hoạt, còn tầng trên cùng để đồ dùng gia đình, lương thực.
Cùng với nếp nhà sàn truyền thống, người Mường ở Hòa Bình còn có trang phục độc đáo và riêng biệt. Đàn ông thường mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, có hai túi dưới hoặc thêm túi trên ngực trái, quần thường có ống rộng và dùng khăn thắt giữa bụng (còn gọi là khăn quần).
Phụ nữ Mường thường mặc áo ngắn. Đây là loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, ống tay dài, có màu nâu hoặc trắng, bên trong mặc áo yếm trắng. Đầu phụ nữ Mường đội khăn trắng, xanh với phong cách nhẹ nhàng, không cầu kỳ.
Người Mường ở Hòa Bình có một kho tàng văn nghệ dân gian phong phú với nhiều thể loại như: thơ, bài mo, truyện cổ, dân ca… cùng nhiều loại nhạc cụ như: cồng, nhị, sáo, trống…
Đặc sắc nhất là những bài dân ca cùng các lễ hội dân gian, trong đó tiêu biểu là Lễ hội Khai hạ - lễ hội gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước, mang dấu ấn văn minh Việt cổ, tôn kính các vị thần linh, người có công lập đất, lập Mường và cầu mong vạn vật phát triển thuận lợi, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Văn hóa Mường còn độc đáo với Mo Mường. Nói đến Mo Mường là nói đến những nghi lễ dân gian có tính thiêng được sử dụng trong tang lễ hay nghi lễ cầu cho mọi điều tốt lành. Mo gắn liền với vòng đời của con người, từ khi sinh ra cất tiếng khóc chào đời cho đến khi nhắm mắt xuôi tay về với Mường Trời.
Tháng 7/2024, hai di tích Mái đá làng Vành ở xã Yên Phú và Hang xóm Trại ở xã Tân Lập của huyện Lạc Sơn được công nhận Di tích Quốc gia đặc biệt, trở thành đại diện tiêu biểu cho các di sản khảo cổ có giá trị lịch sử, văn hóa qua hàng nghìn năm của nền văn hóa xứ Mường Hòa Bình.
Phát huy giá trị văn hóa Mường và nền “Văn hóa Hòa Bình”
Cùng với quá trình hội nhập, nhiều giá trị văn hóa của dân tộc Mường và nền “Văn hóa Hòa Bình” đang bị mai một nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Hòa Bình đã và đang triển khai nhiều giải pháp để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của người Mường và nền “Văn hóa Hòa Bình”.
Từ năm 2010 đến nay, Hòa Bình đã tăng cường giới thiệu, quảng bá, sưu tầm, sáng tác, chuyển thể sân khấu hóa Mo Mường đến du khách; đưa nội dung trình diễn Mo Mường vào các chương trình, sự kiện lớn của tỉnh.
Tỉnh cũng thành lập 5 câu lạc bộ Mo Mường tại các huyện: Lạc Sơn, Tân Lạc, Cao Phong, Yên Thủy và Kim Bôi. Tỉnh cũng đang tích cực phối hợp với các cơ quan liên quan hoàn thiện hồ sơ khoa học di sản văn hóa Mo Mường đệ trình Tổ chức UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
Tháng 6/2024, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hòa Bình thành lập Ban Chỉ đạo triển khai thực hiện Đề án bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Mường và nền “Văn hóa Hòa Bình” giai đoạn 2023 - 2030.
Đề án tập trung đầu tư xây dựng một số khu bảo tồn, khu không gian bảo tồn Di sản Văn hóa dân tộc Mường, Mo Mường; phục chế giá trị văn hóa vật thể; bảo tồn và phát triển 5 điểm du lịch cộng đồng; phát huy giá trị văn hóa phi vật thể dân tộc Mường; tăng cường quảng bá, phát huy văn hóa Hòa Bình…
Theo ông Nguyễn Phi Long, Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình, Trưởng Ban Chỉ đạo Đề án, tỉnh xác định bảo tồn giá trị văn hóa để phát triển du lịch, người dân là chủ thể trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, giá trị tốt đẹp, đặc sắc gắn với xóa bỏ hủ tục lạc hậu, biến giá trị văn hóa dân tộc Mường và nền "Văn hóa Hòa Bình" trở thành tài sản phát triển.
“Tỉnh Hòa Bình xác định bảo tồn giá trị văn hóa để phát triển du lịch, người dân là chủ thể trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, giá trị tốt đẹp, đặc sắc gắn với xóa bỏ hủ tục lạc hậu, biến giá trị văn hóa dân tộc Mường và nền "Văn hóa Hòa Bình" trở thành tài sản phát triển”
Ông Nguyễn Phi Long, Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình.
Bài: Thanh Hải Ảnh: An Thành Đạt, Lưu Trọng Đạt Đồ họa: Thanh Nhàn
Tên tự gọi: Mol (hoặc Mon, Moan, Mual).
Nhóm địa phương: Ao Tá (Âu Tá), Mọi Bi.
Dân số: 1.268.963 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Cùng nguồn gốc với người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ...
Hoạt động sản xuất: Nông nghiệp ruộng nước chiếm vị trí hàng đầu, cây lúa là cây lương thực chính. Công cụ làm đất phổ biến là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn, nhỏ có răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng, lấy từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã. Trong canh tác ruộng nước, người Mường có nhiều kinh nghiệm làm thuỷ lợi nhỏ.
Ngoài ruộng nước, người Mường còn làm nương rẫy, chăn nuôi gia đình, săn bắn, đánh cá, hái lượm và sản xuất thủ công nghiệp (dệt vải, đan lát...).
Ăn: Họ thích ăn các món đồ như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá đồ. Cơm, rau đồ chín được dỡ ra rá tãi đều cho khỏi nát trước khi ăn. Rượu cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương vị đậm đà của men được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể.
Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to. Ðặc biệt, phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền nhau hút chung một điếu thuốc.
Mặc: Bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ được nét độc đáo. Khăn đội đầu là một mảnh vải trắng hình chữ nhật không thêu thùa, yếm, áo cánh (phổ biến là màu trắng) thân rất ngắn thường xẻ ở ngực và váy dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và cạp váy. Cạp váy nổi tiếng bởi các hoa văn được dệt kỳ công. Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 giây bạc có treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.
Thầy mo khi hành lễ mặc y phục riêng. Ðó là chiếc áo dài 5 thân cài khuy bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây lưng trắng, đội mũ vải nhọn đầu. Thầy mỡi khi cúng chữa bệnh thường đội mũ chầu.
Ở: Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở chân núi, bên sườn đồi, nơi đất thoải gần sông suối... ở tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ. Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, khuôn viên của mỗi gia đình thường nổi bật lên những hàng cau, cây mít. Ðại bộ phận ở nhà sàn, kiểu nhà bốn mái. Phần trên sàn người ở, dưới gầm đặt chuồng gia súc, gia cầm, để cối giã gạo, các công cụ sản xuất khác.
Làm nhà mới, khi dựng cột bếp, người Mường có tục làm lễ nhóm lửa. Gia chủ lấy bẹ chuối cắt hình 3 con cá to kẹp vào thanh nứa buộc lên cột bếp, ở cột cái của bếp còn đặt một quả bí xanh. Trước lúc đun nấu ở nhà mới, gia chủ làm lễ nhóm lửa xin thần bếp cho đặt 3 hòn đầu rau và hòn đá cái. Ðêm đó gia chủ mời mọi người uống rượu cần dưới ánh sáng của ngọn lửa không tắt.
Phương tiện vận chuyển: Phụ nữ phổ biến dùng loại gùi đan bằng giang hoặc tre, 4 góc nẹp thành thẳng đứng, có dây đeo qua trán hoặc qua vai để chuyên chở. Ðôi dậu, đòn gánh có mấu 2 đầu, đòn xóc cũng thường được sử dụng.
Nước sạch được chứa trong ống nứa to, dài hơn 1 mét vác vai từ bến nước về dựng bên vách để dùng dần.
Quan hệ xã hội: Quan hệ trong làng xóm với nhau chủ yếu là quan hệ láng giềng. Gia đình 2-3 thế hệ chiếm phổ biến. Con cái sinh ra lấy họ cha. Quyền con trai trưởng được coi trọng va con trai trong gia đình được thừa kế tài sản.
Cưới xin: Trai gái tự do yêu đương tìm hiểu, ưng ý nhau thì báo để gia đình chuẩn bị lễ cưới. Ðể dẫn đến đám cưới phải qua các bước: ướm hỏi (kháo thếng), lễ bỏ trầu (ti nòm bánh), lễ xin cưới (nòm khảu), lễ cưới lần thứ nhất (ti cháu), lễ đón dâu (ti du). Trong ngày cưới, ông mối dẫn đầu đoàn nhà trai khoảng ba, bốn chục người gồm đủ nội, ngoại, bạn bè mang lễ vật sang nhà gái tổ chức cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp chít khăn trắng, gùi một chón (gùi) cơm đồ chín (bằng khoảng 10 đấu gạo), trên miệng chón để 2 con gà sống thiến luộc chín. Trong lễ đón dâu, cô dâu đội nón, mặc váy áo đẹp ngoài cùng là chiếc áo dài màu đen thắt 2 vạt ở phía trước. Cô dâu mang về nhà chồng thường là 2 chăn, 2 cái đệm, 2 quả gối tựa để biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà trai biếu cô dì, chú bác.
Sinh đẻ: Khi người vợ sắp sinh con, người chồng phải chuẩn bị nhiều củi, làm một bếp riêng ở gian trong và quây phên nứa thành một buồng kín cho vợ đẻ. Khi vợ chuyển dạ đẻ, người chồng đi báo tin cho mẹ vợ và chị em họ hàng nội ngoại biết để đến nhà cùng nhau chờ đợi. Bà đỡ cắt rốn cho đứa trẻ bằng dao nứa lấy từ đầu chiếc dui trên mái nhà. Nếu là con trai thì dùng dao nứa mái nhà trước, nếu là con gái thì dùng dao nứa mái nhà sau. Cuống rốn của các con trong gia đình được đựng chung trong một ống nứa, họ tin rằng làm như thế lớn lên anh em sẽ thương yêu nhau.
Ngày sinh con, gia đình tổ chức ăn mừng, mời thầy mo cùng trừ mọi điều xấu hại đến mẹ con. Ðẻ được 3-7 ngày thường có nhiều anh em, bà con đến thăm hỏi tặng quà. Bà ngoại mừng cháu bao giờ cũng có vài vuông vải tự dệt, gia đình khá giả mừng thêm chiếc vòng bạc đeo cổ, anh em thân thích thì mừng gạo, mừng tiền.
Người đẻ thường ăn cơm nếp cẩm với lá tắc chiềng (loại lá thuốc chống được bệnh sài), uống nước nấu với các loại lá cây thuốc và trong thời gian cữ (7 đến 10 ngày) nhất là 3 ngày đầu luôn luôn phải sưởi bên bếp lửa. Trẻ sơ sinh nếu là trai thì được âu yếm gọi là lọ mạ (thóc giống), nếu là gái thì lại trìu mến gọi là cách tắc (rau cỏ). Thường thì trẻ khoảng 1 tuổi mới được đặt tên gọi chính thức.
Ma chay: Người chết tắt thở, con trai trưởng cầm dao nín thở chặt 3 nhát vào khung cửa sổ gia thờ, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo phong tục rồi để vào trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy rồng bằng vải.
Tang lễ do thầy mo chủ trì, dẫn dắt. Bên cạnh hình thức chịu tang của con trai, con gái như vẫn bình thường thấy ở người Việt, riêng con dâu, cháu dâu chịu tang cha mẹ, ông bà còn có bộ tang phục riêng gọi là bộ quạt ma.
Lịch: Lịch cổ truyền người Mường gọi là sách đoi làm bằng 12 thẻ tre tương ứng với 12 tháng. Trên mỗi thẻ có khắc ký hiệu khác nhau để biết tính toán, xem ngày, giờ tốt xấu cho khởi sự công việc.
Người Mường ở Mường Bi có cách tính lịch khác với người Mường ở các nơi khác gọi là cách tính ngày lùi, tháng tới. Tháng giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 của lịch Mường các nơi khác và tháng 10 âm lịch.
Văn nghệ: Hát Xéc bùa (có nơi gọi Xắc bùa hay Khoá rác) được nhiều người ưa thích. Thường (có nơi gọi Ràng thường hoặc Xường) là loại dân ca ca ngợi lao động, và các nét đẹp phong tục dân tộc. Bọ mẹng là hình thức hát giao du tâm sự tình yêu. Ví đúm cũng là loại dân ca phổ biến.
Bên cạnh đó, người Mường còn có các thể loại hát khác như hát ru, hát đồng dao... Ðặc biệt, ở người Mường phải kể đến lễ ca. Ðó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang.
Ngoài sáo, nhị, trống, kèn... thì cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc.
Chơi: Trò chơi của người Mường gần gũi với mọi đối tượng. Có những trò chơi được tổ chức chu đáo, công phu như: thi bắn nỏ, đánh đu, ném còn... Các trò chơi của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng được tổ chức linh hoạt ở mọi nơi, mọi lúc với những điều kiện chơi đàn giản, tiện lợi như trò đánh cá cắt, trò cò le, trò đánh chó hoặc buôn chó, trò đánh mảng, trò chăm chỉ, chằm chăn.
Theo cema.gov.vn