Lễ hội Khai Hạ, tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở Hòa Bình

Ngày 17/2 (tức mồng 8 Tết Giáp Thìn), tại sân vận động xã Phong Phú, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình diễn ra Lễ hội Khai hạ dân tộc Mường năm 2024. Lễ hội năm nay được tổ chức quy mô cấp tỉnh với nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể thao, trò chơi dân gian, ẩm thực... thu hút đông đảo du khách tham dự.

z5167608734284_e270cddf45e0865c28f7f050d58878d6.jpg
Nghi thức rước kiệu tại miếu thờ xóm Lũy, xã Phong Phú, nơi gắn liền với truyền thuyết về Quốc Mẫu Hoàng Bà và Tam vị Tản Viên Sơn Thánh. Ảnh: Hoàng Tâm

Lễ hội Khai Hạ dân tộc MườngHòa Bình thường được tổ chức vào tháng Giêng Âm lịch hàng năm tại 4 vùng Mường (Bi, Vang, Thàng, Động). Lễ hội mang ý nghĩa tôn kính các vị thần linh, tưởng nhớ những người đã có công lập đất, lập mường và cầu mong vạn vật phát triển thuận lợi, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Lễ hội Khai hạ Mường Vang (Lạc Sơn) tổ chức vào ngày mùng 4 tháng Giêng theo lịch Mường Vang tại Miếu Áng Ka và một số địa điểm khác; lễ hội Khai hạ Mường Thàng (Cao Phong) được tổ chức vào ngày mùng 6 tháng Giêng theo lịch Mường Thàng tại Miếu Cả; lễ hội Khai hạ Mường Động (Kim Bôi) được tổ chức ngày mùng 3 tháng 5 âm lịch tức ngày mùng 4 tháng tư theo lịch Mường Động tại Miếu Mường Chanh.

z5167608144700_00bf0d9ef7b939668b1d63980a4f6fa5.jpg
Thầy Mo thực hiện các nghi lễ trong Lễ hội Khai Hạ. Ảnh: Hoàng Tâm

Ở vùng Mường Bi, huyện Tân Lạc, lễ hội Khai Hạ là dịp là dịp để bà con cầu mong một năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no. Lễ hội còn được gọi là lễ xuống đồng, lễ mở cửa rừng, lễ hội dân gian truyền thống lớn nhất của người Mường Hòa Bình, gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước, mang nhiều dấu ấn của văn minh của người Việt cổ.

z5167612941383_2d3bcb358bd51c7629f55ea56c9541a6.jpg
Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Hòa Bình Nguyễn Phi Long đánh trống khai hội. Ảnh: Hoàng Tâm
z5167609623744_b1cccc70d4eb53a77e189df4fbd15c94.jpg
Lễ hội Khai Hạ dân tộc Mường là lễ hội dân gian truyền thống lớn nhất của người Mường ở Hòa Bình. Ảnh: Hoàng Tâm
z5167611643781_49ad4b48ae8a9fe31fe8e15ae72917f6.jpg
Chương trình nghệ thuật đặc sắc tại lễ hội. Ảnh: Hoàng Tâm

Năm 2022, Lễ hội Khai Hạ dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Lễ hội mang ý nghĩa tôn kính các vị thần linh, tưởng nhớ những người đã có công lập đất, lập mường và cầu mong vạn vật phát triển thuận lợi, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc…

Trải qua những thăng trầm, biến thiên của lịch sử, lễ hội đã đi sâu vào tâm thức của cộng đồng người Mường. Lễ hội Khai Hạ ở mỗi vùng Mường diễn ra vào thời gian và địa điểm khác nhau. Mỗi địa điểm diễn ra lễ hội đều gắn liền với lịch sử của các vị thần là người có công lập đất, lập Mường.

z5167609115983_4c4658bfa693aa808f6131835009e4d1.jpg
Bà con dân tộc Mường trình diễn chiêng Mường tại lễ hội. Ảnh: Hoàng Tâm
vna_potal_tung_bung_le_hoi_khai_ha_dan_toc_muong_hoa_binh_2024_7229505.jpg
Trình diễn chiêng Mường trong Lễ hội Khai hạ dân tộc Mường Hòa Bình năm 2024. Ảnh: Trọng Đạt - TTXVN

Lễ hội có nhiều hoạt động ấn tượng: Phần lễ tổ chức nghi lễ cúng thổ công, thổ địa, nghi lễ thờ cúng Thành Hoàng và rước kiệu Quốc Mẫu Hoàng Bà cùng chương trình nghệ thuật đặc sắc chào mừng lễ khai mạc với màn trình tấu chiêng Mường của hơn 500 nghệ nhân.

vna_potal_tung_bung_le_hoi_khai_ha_dan_toc_muong_hoa_binh_2024_7229498.jpg
Nghi lễ rước kiệu ra cánh đồng trước khi thực hiện nghi thức xuống đồng cấy lúa để mở đầu cho một năm mới làm ăn phát đạt, mùa màng bội thu. Ảnh: Trọng Đạt - TTXVN

Phần hội với chương trình nghệ thuật đặc sắc với nhiều hoạt động văn hóa như: Thi trình diễn trang phục dân tộc Mường; thi đấu các môn thể thao dân tộc như bắn nỏ, kéo co, đẩy gậy; thi đan lát truyền thống, các trò chơi dân gian đi cà kheo, ném còn, đẩy gậy…

z5167610546050_c8f68049e0fc55f90a58ac98a3d9cfa1.jpg
Bà con dân tộc Mường thực hiện nghi lễ cấy lúa để mong một mùa màng bội thu. Ảnh: Hoàng Tâm
vna_potal_tung_bung_le_hoi_khai_ha_dan_toc_muong_hoa_binh_2024_7229509.jpg
Thiếu nữ dân tộc Mường trong ngày lễ hội Khai hạ dân tộc Mường Hòa Bình năm 2024. Ảnh: Trọng Đạt - TTXVN
vna_potal_tung_bung_le_hoi_khai_ha_dan_toc_muong_hoa_binh_2024_7229508.jpg
Rất đông người dân và du khách về tham dự Lễ hội Khai hạ dân tộc Mường Hòa Bình. Ảnh: Trọng Đạt - TTXVN
427975450_718851117058970_1648631461643706857_n.jpg
Các món ẩm thực của đồng bào Mường được giới thiệu tại lễ hội. Ảnh: Hoàng Tâm

Lễ hội Khai Hạ dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình là hoạt động triển khai Đề án bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Mường và nền "Văn hóa Hòa Bình” giai đoạn 2023 – 2030 trên địa bàn tỉnh Hòa Bình. Đây là Đề án nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, quảng bá nét đẹp văn hoá truyền thống để phát triển du lịch, tạo đà phát triển kinh tế - xã hội của địa phương ngày càng vững mạnh.

Hoàng Tâm

(Báo ảnh Dân tộc và Miền núi)
Dân tộc Mường Dân tộc Mường

Tên tự gọi: Mol (hoặc Mon, Moan, Mual).

Nhóm địa phương: Ao Tá (Âu Tá), Mọi Bi.

Dân số: 1.268.963 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Cùng nguồn gốc với người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ...

Hoạt động sản xuất: Nông nghiệp ruộng nước chiếm vị trí hàng đầu, cây lúa là cây lương thực chính. Công cụ làm đất phổ biến là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn, nhỏ có răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng, lấy từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã. Trong canh tác ruộng nước, người Mường có nhiều kinh nghiệm làm thuỷ lợi nhỏ.

Ngoài ruộng nước, người Mường còn làm nương rẫy, chăn nuôi gia đình, săn bắn, đánh cá, hái lượm và sản xuất thủ công nghiệp (dệt vải, đan lát...).

Ăn: Họ thích ăn các món đồ như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá đồ. Cơm, rau đồ chín được dỡ ra rá tãi đều cho khỏi nát trước khi ăn. Rượu cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương vị đậm đà của men được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể.

Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to. Ðặc biệt, phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền nhau hút chung một điếu thuốc.


Mặc: Bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ được nét độc đáo. Khăn đội đầu là một mảnh vải trắng hình chữ nhật không thêu thùa, yếm, áo cánh (phổ biến là màu trắng) thân rất ngắn thường xẻ ở ngực và váy dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và cạp váy. Cạp váy nổi tiếng bởi các hoa văn được dệt kỳ công. Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 giây bạc có treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.

Thầy mo khi hành lễ mặc y phục riêng. Ðó là chiếc áo dài 5 thân cài khuy bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây lưng trắng, đội mũ vải nhọn đầu. Thầy mỡi khi cúng chữa bệnh thường đội mũ chầu.

: Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở chân núi, bên sườn đồi, nơi đất thoải gần sông suối... ở tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ. Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, khuôn viên của mỗi gia đình thường nổi bật lên những hàng cau, cây mít. Ðại bộ phận ở nhà sàn, kiểu nhà bốn mái. Phần trên sàn người ở, dưới gầm đặt chuồng gia súc, gia cầm, để cối giã gạo, các công cụ sản xuất khác.

Làm nhà mới, khi dựng cột bếp, người Mường có tục làm lễ nhóm lửa. Gia chủ lấy bẹ chuối cắt hình 3 con cá to kẹp vào thanh nứa buộc lên cột bếp, ở cột cái của bếp còn đặt một quả bí xanh. Trước lúc đun nấu ở nhà mới, gia chủ làm lễ nhóm lửa xin thần bếp cho đặt 3 hòn đầu rau và hòn đá cái. Ðêm đó gia chủ mời mọi người uống rượu cần dưới ánh sáng của ngọn lửa không tắt.

Phương tiện vận chuyển: Phụ nữ phổ biến dùng loại gùi đan bằng giang hoặc tre, 4 góc nẹp thành thẳng đứng, có dây đeo qua trán hoặc qua vai để chuyên chở. Ðôi dậu, đòn gánh có mấu 2 đầu, đòn xóc cũng thường được sử dụng.

Nước sạch được chứa trong ống nứa to, dài hơn 1 mét vác vai từ bến nước về dựng bên vách để dùng dần.

Quan hệ xã hội: Quan hệ trong làng xóm với nhau chủ yếu là quan hệ láng giềng. Gia đình 2-3 thế hệ chiếm phổ biến. Con cái sinh ra lấy họ cha. Quyền con trai trưởng được coi trọng va con trai trong gia đình được thừa kế tài sản.

Cưới xin: Trai gái tự do yêu đương tìm hiểu, ưng ý nhau thì báo để gia đình chuẩn bị lễ cưới. Ðể dẫn đến đám cưới phải qua các bước: ướm hỏi (kháo thếng), lễ bỏ trầu (ti nòm bánh), lễ xin cưới (nòm khảu), lễ cưới lần thứ nhất (ti cháu), lễ đón dâu (ti du). Trong ngày cưới, ông mối dẫn đầu đoàn nhà trai khoảng ba, bốn chục người gồm đủ nội, ngoại, bạn bè mang lễ vật sang nhà gái tổ chức cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp chít khăn trắng, gùi một chón (gùi) cơm đồ chín (bằng khoảng 10 đấu gạo), trên miệng chón để 2 con gà sống thiến luộc chín. Trong lễ đón dâu, cô dâu đội nón, mặc váy áo đẹp ngoài cùng là chiếc áo dài màu đen thắt 2 vạt ở phía trước. Cô dâu mang về nhà chồng thường là 2 chăn, 2 cái đệm, 2 quả gối tựa để biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà trai biếu cô dì, chú bác.

Sinh đẻ: Khi người vợ sắp sinh con, người chồng phải chuẩn bị nhiều củi, làm một bếp riêng ở gian trong và quây phên nứa thành một buồng kín cho vợ đẻ. Khi vợ chuyển dạ đẻ, người chồng đi báo tin cho mẹ vợ và chị em họ hàng nội ngoại biết để đến nhà cùng nhau chờ đợi. Bà đỡ cắt rốn cho đứa trẻ bằng dao nứa lấy từ đầu chiếc dui trên mái nhà. Nếu là con trai thì dùng dao nứa mái nhà trước, nếu là con gái thì dùng dao nứa mái nhà sau. Cuống rốn của các con trong gia đình được đựng chung trong một ống nứa, họ tin rằng làm như thế lớn lên anh em sẽ thương yêu nhau.

Ngày sinh con, gia đình tổ chức ăn mừng, mời thầy mo cùng trừ mọi điều xấu hại đến mẹ con. Ðẻ được 3-7 ngày thường có nhiều anh em, bà con đến thăm hỏi tặng quà. Bà ngoại mừng cháu bao giờ cũng có vài vuông vải tự dệt, gia đình khá giả mừng thêm chiếc vòng bạc đeo cổ, anh em thân thích thì mừng gạo, mừng tiền.

Người đẻ thường ăn cơm nếp cẩm với lá tắc chiềng (loại lá thuốc chống được bệnh sài), uống nước nấu với các loại lá cây thuốc và trong thời gian cữ (7 đến 10 ngày) nhất là 3 ngày đầu luôn luôn phải sưởi bên bếp lửa. Trẻ sơ sinh nếu là trai thì được âu yếm gọi là lọ mạ (thóc giống), nếu là gái thì lại trìu mến gọi là cách tắc (rau cỏ). Thường thì trẻ khoảng 1 tuổi mới được đặt tên gọi chính thức.

Ma chay: Người chết tắt thở, con trai trưởng cầm dao nín thở chặt 3 nhát vào khung cửa sổ gia thờ, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo phong tục rồi để vào trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy rồng bằng vải.

Tang lễ do thầy mo chủ trì, dẫn dắt. Bên cạnh hình thức chịu tang của con trai, con gái như vẫn bình thường thấy ở người Việt, riêng con dâu, cháu dâu chịu tang cha mẹ, ông bà còn có bộ tang phục riêng gọi là bộ quạt ma.

Lịch: Lịch cổ truyền người Mường gọi là sách đoi làm bằng 12 thẻ tre tương ứng với 12 tháng. Trên mỗi thẻ có khắc ký hiệu khác nhau để biết tính toán, xem ngày, giờ tốt xấu cho khởi sự công việc.

Người Mường ở Mường Bi có cách tính lịch khác với người Mường ở các nơi khác gọi là cách tính ngày lùi, tháng tới. Tháng giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 của lịch Mường các nơi khác và tháng 10 âm lịch.

Văn nghệ: Hát Xéc bùa (có nơi gọi Xắc bùa hay Khoá rác) được nhiều người ưa thích. Thường (có nơi gọi Ràng thường hoặc Xường) là loại dân ca ca ngợi lao động, và các nét đẹp phong tục dân tộc. Bọ mẹng là hình thức hát giao du tâm sự tình yêu. Ví đúm cũng là loại dân ca phổ biến.

Bên cạnh đó, người Mường còn có các thể loại hát khác như hát ru, hát đồng dao... Ðặc biệt, ở người Mường phải kể đến lễ ca. Ðó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang.

Ngoài sáo, nhị, trống, kèn... thì cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc.

Chơi: Trò chơi của người Mường gần gũi với mọi đối tượng. Có những trò chơi được tổ chức chu đáo, công phu như: thi bắn nỏ, đánh đu, ném còn... Các trò chơi của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng được tổ chức linh hoạt ở mọi nơi, mọi lúc với những điều kiện chơi đàn giản, tiện lợi như trò đánh cá cắt, trò cò le, trò đánh chó hoặc buôn chó, trò đánh mảng, trò chăm chỉ, chằm chăn.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm