Người Cống sống tập trung chủ yếu ở tỉnh Điện Biên. Ảnh: Chu Quốc Hùng - TTXVN |
Thời gian tổ chức Tết cơm mới thường được tiến hành vào khoảng tháng 8 âm lịch. Lễ vật bao gồm: thịt sóc, chuột, cá, quả dưa, bí, khoai sọ, mía… tất cả được sắp theo đôi. Người Cống cho rằng ma tổ tiên chỉ nhận đồ lễ có số chẵn chứ không nhận số lẻ. Ngoài ra, khi cúng cơm mới, người Cống còn để những dụng cụ lao động như: lưỡi dao, lưỡi thuổng lên một chiếc mẹt và rắc chấu cốm lên trên, với quan niệm, những vật dụng này đã giúp con người phát nương, cuốc rẫy nên khi con người thu lúa nó cũng phải được chia phần. Trong đó, cơm cốm là lễ vật đặc biệt, không thể thiếu. Nó còn là món quà biếu đầy ý nghĩa cho bố mẹ họ hàng.
Tết cơm mới của người Cống thường diễn ra trong hai ngày: Ngày thứ nhất cúng mời tổ tiên, thần linh về nhận lễ lúa mới. Khi xưa, địa điểm cúng cơm mới thường được tổ chức ở gốc cây trên rừng cạnh bản. Ngày nay, địa điểm cúng thường là nhà của chủ dòng họ. Trước khi bắt đầu lễ cúng, ông chủ dòng họ buộc ta leo lên phía trên các cửa ra vào nhà. Khác với người Thái, ta leo của người Cống không đan hình mắt cáo mà được làm từ ba chiếc lạt đan vào với nhau. Mỗi chiếc được buộc thắt ở hai đầu với ý niệm những nút buộc này sẽ trói chân ma dữ ở lại ngoài cửa, không cho nó vào nhà; đồng thời buộc vía những người trong nhà, để vía của họ ở lại với thể xác, giúp cho cơ thể khỏe mạnh, không bị ốm đau.
Giờ cúng cơm mới thường được bắt đầu từ 4 giờ chiều. Theo các cụ già người Cống đây là giờ mà tổ tiên có thể về nhà nhận lễ cơm mới. Ông chủ dòng họ ngồi bên cạnh mâm lễ vật, khấn mời ma tổ tiên về ăn lúa mới. Cúng xong, ông cầm con gà lên dùng dao cắt tiết, rồi bôi một chút máu lên cây tre với ý niệm mời ma tổ tiên ăn. Sau đó ông cúi người vít cần rượu mời tổ tiên uống. Bên cạnh việc cúng tổ tiên, ma lúa, người Cống còn có nghi thức cúng gọi hồn và cầu sức khỏe cho những đứa trẻ trong nhà nhân dịp Tết cơm mới.
Ngày thứ hai chủ yếu là ngày vui liên hoan cộng đồng, gia đình. Họ sẽ đến từng gia đình trong bản để thăm hỏi. Các gia đình dù nghèo hay giầu đều mổ lợn hoặc gà, vịt để ăn mừng. Mâm cơm liên hoan ngày cơm mới có thể ít thịt, thiếu cá, nhưng nhà nào cũng phải có xôi cốm và các loại quả, rượu, măng để mời khách. Sau những ngày đi nương, đi rừng miệt mài kiếm sống, Tết cơm mới là dịp họ gặp nhau để tâm sự, trò chuyện. Cuộc liên hoan thường kéo dài hết cả ngày thứ hai, đến xế chiều dường như men rượu đã ngấm, họ gõ chiêng, chụm chọe, hát múa tưng bừng. Theo lí của người Cống, các cụ bà phải múa trước để mở màn cho cuộc liên hoan văn nghệ, sau đó con cháu mới được múa theo. Bà chủ dòng họ vung gạo vào những người đang múa với ý niệm cầu may mắn. Điệu múa trong ngày cơm mới diễn ra tuy đơn sơ nhưng nồng hậu ấm áp. Động tác múa của nữ giới uốn lượn mềm mại, uyển chuyển; động tác múa của nam giới mạnh mẽ, dứt khoát. Mọi người đến xem hò reo, cổ vũ náo nhiệt, khiến không khí của ngày hội thêm tưng bừng.
Sau lễ cơm mới, người Cống yên tâm, tin tưởng, vui vẻ bước vào những ngày thu hoạch lúa bận rộn miệt mài.
Tên tự gọi: Xắm khống, Phuy A.
Dân số: 2.029 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến (ngữ hệ Hán - Tạng) gần hơn với tiếng Miến, cùng nhóm với các tiếng La Hủ, Phù Lá, Si La... Họ quen sử dụng tiếng Thái trong giao dịch hàng ngày.
Lịch sử: Người Cống có nguồn gốc di cư trực tiếp từ Lào sang.
Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương, đang chuyển sang làm nương cuốc, ruộng. Hái lượm còn giữ vai trò quan trọng. Người Cống không quen dệt vải, chỉ trồng bông để đổi lấy vải của các dân tộc khác. Họ giỏi đan chiếu mây nhuộm đỏ, các đồ đựng bằng tre nứa như gùi đeo, giỏ đựng cơm, rương hòm... Chuyển xuống định cư ven sông Ðà, nên người Cống quen dần với việc sử dụng thuyền trên sông.
Ăn: Người Cống ăn cơm nếp và cơm tẻ.
Mặc: Y phục của người Cống giống người Thái. Một ít gia đình còn giữ lại vài bộ y phục truyền thống bằng vải dệt của người Lào.
Ở: Nhà sàn ba hay bốn gian, chỉ có một cửa ra vào, một cửa sổ ở gian giữa, chạy dọc theo vách mặt chính của nhà có thêm một chiếc sàn nhỏ ít có giá trị sử dụng nhưng nhà nào cũng có là đặc trưng trong nhà người Cống.
Phương tiện vận chuyển: Người Cống quen sử dụng thuyền đi lại trên sông Ðà và gùi đeo qua trán khi đi nương, đi rẫy.
Quan hệ xã hội: Người Cống ở khá tập trung trong các làng bản có quy mô vừa và lớn. Tính cộng đồng làng bản cao. Phụ nữ có vai trò quan trọng trong gia đình cũng như xã hội.
Trong xã hội cổ truyền, chưa có sự phân hoá giai cấp, chịu sự chi phối chặt chẽ của hệ thống chức dịch người Thái.
Dân số ít song người Cống có tới 13 dòng họ khác nhau. Ða số các dòng họ mang tên Thái như: Lò, Quang, Kha... dấu vết tô tem giáo còn rõ nét với tục kiêng và thờ các loại chim muông, thú vật. Mỗi dòng họ thường có người đứng đầu với chức năng chủ trì các công việc liên quan tới đời sống tinh thần.
Cưới xin: Hôn nhân một vợ một chồng chặt chẽ. Không có đa thê, ly dị trong xã hội truyền thống.
Tục ở rể được thực hiện nghiêm ngặt, trước kia khoảng 8 - 12 năm. Lễ vật truyền thống trong lễ xin con trai tới ở rể thường vào buổi tối là gói muối, gói chè, cuộn dây gai đan chài, hay một ống rượu cần... Ngay sáng hôm sau, người con trai mang chăn, gối, con dao tới nhà gái ở rể, cũng từ đó người con gái búi tóc ngược đỉnh đầu, dấu hiệu của người đã có chồng.
Lễ đón dâu về nhà trai khi hạn ở rể đã hết, lúc đó đôi vợ chồng đã con cái đầy nhà. Của hồi môn bố mẹ cho con cái mang về nhà chồng. Nếu nhà trai người cùng bản phải cõng cô dâu về tận nhà. Trong ngày cưới, người ta không mặc quần áo mới vì có tục vẩy nước tro lên đoàn đón dâu trước khi ra về để cầu may.
Sinh đẻ: Sản phụ đẻ ngồi. Trước và sau khi đẻ phải kiêng kỵ nhiều thứ. Người Cống rất giỏi trong việc tìm kiếm lá thuốc để chăm sóc phụ nữ khi sinh nở.
Ma chay: Khi nhà có người chết, phải mời thầy mo tới làm lễ cúng đưa hồn về với tổ tiên. Việc chọn ngày chôn được coi trọng. Trong những ngày trước hôm chôn, thường phải cúng cơm cho người chết, buổi tối có các nghi thức nhảy múa truyền thống. Sau khi táng có làm nhà mồ đơn giản. Mười hai ngày sau khi chôn người chết, con cháu mới lập bàn thờ trong nhà. Con cái để tang cha mẹ bằng cách cạo trọc đầu (con trai), cắt tóc mai (con gái) và đội khăn tang cho tới khi cúng cơm mới, mới được bỏ.
Thờ cúng: Cùng với việc cúng tổ tiên 2, 3 đời theo phụ hệ là việc cúng ma bố mẹ vợ vào dịp tết. Bố chủ trì việc cúng. Nếu bố chết, mẹ thay thế. Khi anh em chia nhà ra ở riêng, mỗi người con trai lập bàn thờ cúng riêng tại nhà mình. Lễ vật cúng tổ tiên chỉ có bát gạo, ống nước và con gà. Người cúng ôm gà ngồi trước bàn thờ khấn, xong giết gà ngay tại chỗ, bôi máu vào lá dong, gói lại cài lên vách nơi thờ cúng vài ba chiếc lông gà.
Hàng năm cứ đến tháng ba âm lịch, các bản đều tổ chức lễ cúng bản trước vụ gieo hạt, các ngả đường vào bản làm cổng, cắm dấu hiệu kiêng kỵ một ngày không ai được vào bản.
Các gia đình đều làm lễ cúng trên nương trước khi kết thúc công việc tra hạt. Ðêm đó chủ nhà làm lễ cúng ở phía trên lều nương; lễ vật chỉ có cá, cua, cầu mong chim thú không phá hại; trồng vài khóm kiệu cầu xin lúa tốt, xanh tươi như khóm cây này.
Học: Việc giáo dục truyền thống thông qua kinh nghiệm truyền từ đời này sang đời khác kết hợp với thực hành.
Văn nghệ: Người Cống thường hát múa vào dịp lễ tết, nhất là trong đám cưới. Hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái hôm đón dâu ở chân cầu thang trước khi lên nhà thực sự là một cuộc thi hát dân gian. Trai gái, già trẻ đều vui múa trong ngày cưới. Ðặc biệt là điệu múa đầu tiên do các em gái của chàng rể trình diễn để bắt đầu cuộc vui. Họ vừa múa, vừa giơ cao các tặng vật truyền thống như con gà, con sóc, cá khô mà người anh trai tặng mình.
Chơi: Các trò chơi tập thể như đuổi bắt, đánh khăng... được trẻ em ưa thích. Ngoài ra, chúng còn chơi các loại đồ chơi bằng tre gỗ tự chế.
Theo cema.gov.vn