Lễ hội kết bạn của Người Mạ

Chủ nhà và khách cùng quây quần bên ché rượu cần trong lễ hội kết bạn của người Mạ Trâu, lợn, dê… là những con vật hiến tế thần linh trong lễ hội. Ảnh: Chu Quốc Hùng
Chủ nhà và khách cùng quây quần bên ché rượu cần trong lễ hội kết bạn của người Mạ Trâu, lợn, dê… là những con vật hiến tế thần linh trong lễ hội. Ảnh: Chu Quốc Hùng

Lễ hội kết bạn là một hoạt động tín ngưỡng dân gian, mang tính nhân văn sâu sắc của đồng bào các dân tộc trên đại ngàn Tây Nguyên nói chung, đồng bào dân tộc Mạ ở Lâm Đồng nói riêng.

Lễ hội kết bạn của Người Mạ ảnh 1Đội cồng chiêng của chủ nhà và khách kết lại thành một vòng tròn trong buổi lễ kết bạn. Ảnh: Chu Quốc Hùng

Diễn ra trên một bãi đất rộng, lễ hội kết bạn giữa gia đình ông Điểu Dố ở buôn Brun với gia đình ông K’Banh ở buôn Go, xã Tiên Hoàng, huyện Cát Tiên (Lâm Đồng) đã thu hút sự tham dự của đông đảo du khách. Bắt đầu là lễ đón bạn với nghi thức đội cồng chiêng của hai buôn cùng dân làng kết lại thành một vòng tròn lớn. Sau bản đồng la, những người già buôn Brun mang rượu cần sang mời người già buôn Go. Khi màn đêm buông xuống, mọi người cùng đốt lửa cạnh cây nêu để múa hát, tiếp tục chơi đồng la.

Lễ hội kết bạn của Người Mạ ảnh 2Chủ nhà và khách cùng quây quần bên ché rượu cần trong lễ hội kết bạn của người Mạ. Ảnh: Chu Quốc Hùng
Lễ hội kết bạn của Người Mạ ảnh 3Chủ nhà và khách cùng quây quần bên ché rượu cần trong lễ hội kết bạn của người Mạ. Trâu, lợn, dê… là những con vật hiến tế thần linh trong lễ hội. Ảnh: Chu Quốc Hùng

Lễ hội kết bạn được tổ chức trong 3 ngày 3 đêm. Trong thời gian này, người Mạ kể lại cho con cháu nghe về những anh hùng huyền thoại, những nghệ nhân đánh cồng chiêng, những luật tục được truyền miệng bằng ca dao dân ca; làm nhiều món ăn truyền thống để đãi khách như bánh bột gạo nếp rang, thịt trâu nướng, thịt lợn nướng… Giữa đại ngàn mênh mông, các thần linh được chứng kiến con người mở hội kết bạn - một tình bạn thiêng liêng - đại diện cho nét văn hóa đặc sắc của tộc người Mạ.

Chu Quốc Hùng

(DTMN)
Dân tộc Mạ Dân tộc Mạ

Tên tự gọi: Mạ.

Tên gọi khác: Châu Mạ, Chô Mạ, Chê Mạ.

Nhóm địa phương: Mạ Ngăn, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung.

Dân số: 41.405 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Lịch sử: Người Mạ là cư dân sinh tụ lâu đời ở Tây Nguyên.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Hoạt động sản xuất: Nương rẫy đóng vai trò chủ yếu trong đời sống của người Mạ. Ðây là loại rẫy đa canh, ngoài trồng lúa còn trồng các loại cây khác như bắp, bầu, bí, thuốc lá, bông vải, ở vùng sông Ðồng Nai, người Mạ làm ruộng bằng kỹ thuật lùa cả đàn trâu xuống ruộng quần đất đến khi nhão bùn thì gieo lúa giống. Họ tính năng suất của rẫy theo số gùi lúa thu được khi trỉa một gùi lúa giống. Công cụ làm rẫy chủ yếu là rìu, xà gạc, dao, liềm, gậy chọc lỗ, gùi. Nghề đánh cá khá phổ biến. Trước đây, họ biết chế thuốc độc từ loại lá rừng bỏ xuống suối để bắt cá. Người Mạ nổi tiếng về nghề trồng bông dệt vải.

Ăn: Cơm gạo tẻ với muối trộn ớt, sả, măng tươi và một số loại rau rừng. Cách chế biến thức ăn chủ yếu là nướng, luộc, nấu canh. Họ thích uống rượu cần và hút thuốc lá bằng điếu khan.

Mặc: Phụ nữ mặc váy quấn dài quá bắp chân, áo chui đầu vừa sát thân dài tới thắt lưng, kín tà. Nam đóng khố, áo hở tà, vạt sau dài hơn vạt trước. Mùa lạnh, người già thường khoác thêm tấm mền. Người Mạ có tập quán cà răng, căng tai, phụ nữ thích đeo chuỗi hạt cườm nhiều màu sắc. Thanh niên mang nhiều vòng đồng ở cổ tay có ngấn khắc chìm như là ký hiệu của các lễ hiến sinh tế thần linh, cầu mát cho chính mình.

: Người Mạ thường sống thành từng làng (bon) với một khu vực đất đai riêng biệt trên các cao nguyên Bảo Lộc, Di Linh, Ðạ Tẻ, lưu vực sông Ðồng Nai (Lâm Ðồng). Mỗi "bon" có từ 5 đến 10 nhà sàn dài. Nhà được làm bằng nứa, bương mai, hai mái lợp bằng lá mây. Mái cửa ra vào (cửa mẹ) uốn khum thành vòm bằng cành trúc đội trên mái cỏ. Xung quanh nhà ở, Họ còn dựng nhiều kho lúa trên sàn cao. Các cột nhà kho đều trang trí theo mô típ chày cối.

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là chiếc gùi nan mang sau lưng với nhiều loại to nhỏ khác nhau. Chiếc gùi dùng đi xa được trang trí hoa văn qua các đường đan. ở vùng ven sông Ðồng Nai, người Mạ làm thuyền độc mộc để đi lại, vận chuyển và đánh cá trên sông.

Quan hệ xã hội: Làng là đơn vị tổ chức xã hội cao nhất của người Mạ do chủ làng đứng đầu (quăng bon). Chủ làng có nhiệm vụ cùng tế trong các nghi lễ mang tính chất cộng đồng. Người Mạ tồn tại hai hình thức gia đình: gia đình lớn phụ quyền và gia đình nhỏ phụ quyền. Người chủ gia đình lớn là người cao tuổi nhất của thế hệ cao nhất trong gia tộc, có nhiệm vụ điều hành mọi công việc trong gia đình và trông coi các đồ dùng quý hiếm như chiêng, ché.

Trong loại gia đình lớn phụ quyền, từng cặp vợ chồng với con cái ở chung nhưng làm ăn riêng, còn gia đình nhỏ phụ quyền thì như một đơn vị kinh tế cá thể nhưng vẫn lưu giữ dấu vết của gia đình lớn phụ hệ.

Ngôi nhà dài truyền thống của người Mạ còn lại rất ít trong các buôn làng.

Cưới xin: Quyền chủ động hôn nhân do bên nhà trai, nhưng sau lễ cưới nếu nhà trai nộp đủ sính lễ thì đôi vợ chồng chỉ ở lại nhà gái 8 ngày, còn không, chàng trai phải ở rể đến khi nộp đủ mới được đưa vợ về nhà mình.

Sinh đẻ: Khi sinh con trai, nhau của đứa trẻ đựng trong vỏ trái bầu khô chôn trước nhà, nếu sinh con gái nhau chôn sau nhà. Sang ngày thứ 8, người mẹ bồng con ra sân tắm nắng, nếu con trai phải mang theo xà gạt, nỏ, dao vót nan, con gái mang theo gùi, rìu chẻ củi, túi đựng cơm và giới bên kia như xà gạt, rìu, ché, váy áo chôn cùng huyệt hoặc bỏ rải rác xung quanh mộ. Sau lễ mai táng thì bỏ mả và tang chủ phải kiêng 7 ngày không được vào rừng hoặc lên rẫy.

Thờ cúng: Người Mạ tin có thần (Yang). Họ thờ cúng nhiều Yang như Yang Hiu (thần nhà), Yang Koi (thần lúa), Yang Bơnơm (thần núi). Họ thường giết súc vật tế thần vào những dịp được mùa, sinh đẻ, bệnh tật, chết chóc. Lễ hiến sinh lớn nhất là lễ đâm trâu, thường được thực hiện lúc kết thúc mùa rẫy.

Lịch: Người Mạ theo âm lịch.

Học: Người Mạ không có chữ viết, nền văn hoá dân gian Mạ vẫn sống bằng lối sống nghìn xưa - thuộc lòng và truyền miệng.

Văn nghệ: Vốn văn học nghệ thuật dân gian khá phong phú gồm nhiều truyền thuyết, truyện cổ và những bài dân ca trữ tình gọi là "tam bớt".

Nhạc cụ truyền thống là bộ chiêng đồng 6 chiếc không núm. Khi hoà tấu có trống bịt da trâu đánh giáo đầu, giữ nhịp và đổ hồi trước khi kết thúc. Con trai Mạ thường thổi khèn bầu, sáo trúc, tù và bằng sừng trâu.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm