Lễ cúng bến nước của người Hrê

Lễ cúng bến nước của người Hrê
Lễ cúng bến nước là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng mang nhiều ý nghĩa tích cực trong đời sống tâm linh của người Hrê. Phong tục này không chỉ đơn thuần là tín ngưỡng mà còn nâng cao ý thức của đồng bào dân tộc trong việc bảo vệ, giữ gìn nguồn nước buôn làng.
Hiện nay người Hrê sinh sống chủ yếu ở miền Tây tỉnh Quảng Ngãi như huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long; huyện An Lão, tỉnh Bình Ðịnh; một số ít ở huyện Kon Plông (Kon Tum).

Đồng bào Hrê, huyện An Lão (Bình Định) tái hiện lại Lễ cúng bến nước
Đồng bào Hrê, huyện An Lão (Bình Định) tái hiện lại Lễ cúng bến nước
 
Hàng năm vào khoảng cuối tháng 12 âm lịch, sau mùa gieo trồng và chuẩn bị đón Tết cổ truyền, đồng bào Hrê tổ chức Lễ cúng bến nước để tạ ơn Yàng (Trời).

Với đồng bào Hrê, nguồn nước là nơi nữ thần Vada ngự trị, nơi giữ hồn người, giữ gia tài, súc vật của bản làng. Đồng bào cúng thần nước là để tri ân nguồn nước đã giúp cho người dân cày cấy, gieo hạt trên nương được no đủ, đồng thời mời thần nước về ăn tết cùng với dân làng. Lễ cúng bến nước còn được gọi là Tết giọt nước, Tết bến nước.

Ngày xưa bến nước là vũng nước trong mát ở cạnh bờ sông, bờ suối hoặc khe nước từ núi chảy ra, nơi dân làng chọn để lấy nước sinh hoạt. Ngày nay, bến nước có khi là bể chứa hoặc một công trình nước sạch được dẫn từ thượng nguồn về.

Theo tín ngưỡng, đồng bào Hrê vẫn đến đây cúng “Thần nước”. Bởi, sau một năm làm ăn lo toan vất vả để chuẩn bị bước sang năm mới, dân làng muốn tẩy trừ mọi xui xẻo, rủi ro của năm cũ và đón năm mới vạn sự tốt lành, an bình, no ấm, may mắn cho bản thân và cả buôn làng.  

Trước khi tiến hành nghi lễ cúng, già làng, trưởng thôn thông báo họp bàn với dân làng để giao nhiệm vụ chuẩn bị mọi việc chu toàn. Thanh niên trai tráng được giao làm vệ sinh bến nước. Phụ nữ, người già dọn dẹp nhà cửa, đường làng.

Lễ được chia thành hai phần: Cúng tại bến nước và cúng rượu cần tại nhà già làng.

Lễ vật cúng tại bến nước gồm rượu, trầu cau, một con gà trống màu trắng hoặc con heo trắng (tùy vào mức đóng góp của dân làng). Thầy cúng cắt tiết gà, sau đó đưa gà cho đám thanh niên làm thịt, chỉ giữ lại mỏ, mào, móng gà tượng trưng để lên bàn cúng cùng với tiết. Lúc này bà con dân làng bỏ trầu cau lên bàn cúng để thầy tiếp tục cúng (sói), rồi thầy đốt nhoi Clâu (một loại trầm hương lấy từ rừng già) để xua đi u ám, rủi ro, bệnh tật cho dân làng.

Để tiếp thêm sức mạnh cho thầy cúng gửi gắm những điều mong ước nói với thần linh, dân làng đeo sợi dây chỉ vào cổ thầy và cùng đưa tay về phía trước nơi có khói hương ngào ngạt cầu mong thần linh có thể nghe được lời cầu nguyện.

Những vị thần linh được tôn xưng gọi về để cúng dâng lễ vật là Yàng Rét (thần nước), Yàng Giang (thần sông), Yàng Gông (thần núi). Cúng xong, thầy cúng cùng một số người đưa sợi dây, mang theo trầu cau làm lễ vật xuống nước tạ ơn Yàng Rét và xin Yàng phù hộ những điều tốt lành đến cho dân làng.

Sau đó, đồng bào tập trung tại nhà già làng làm nghi lễ sói rượu cần. Già làng chọn một ống nước đổ vào ché rượu cho thầy cúng. Những người được uống rượu đầu tiên là thầy cúng, già làng, người có uy tín trong làng.

Đây là nghi lễ truyền thống mang nét văn hóa đặc trưng, đậm chất nhân văn, có ý nghĩa giáo dục sâu sắc cho thế hệ trẻ về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của đồng bào dân tộc Hrê. 
Theo baodaknong.org.vn
Dân tộc Hrê Dân tộc Hrê

Tên tự gọi: Hrê, trước kia thường gắn với tên sông sở tại như: "người Krê" - sông Krế ở Sơn Hà; "người Hrê" - sông Hrê ở Ba Tơ; "người nước Ðinh" - sông Ðinh ở An Lão)...

Tên gọi khác: Chăm Rê, Chom, Thượng Ba Tơ, Mọi Luỹ, Mọi Sơn Phòng, Mọi Ðá Vách, Chăm Quảng Ngãi, Mọi Chòm, Rê, Màn Thạch Bích.

Dân số: 127.420 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (Ngữ hệ Nam Á). Từ thời kỳ trước năm 1975, chữ viết ra đời bằng cách dùng hệ thống kí tự La-tinh để phiên âm, được sử dụng rộng rãi, nhưng nay đã bị mai một.

Lịch sử: Người Hrê thuộc số cư dân sinh tụ rất lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên.

Hoạt động sản xuất: Phần lớn người Hrê làm ruộng nước là chính, chỉ có một bộ phận sống chủ yếu nhờ rẫy. Lối canh tác rẫy phát - đốt - chọc trỉa, với bộ nông cụ đơn giản gồm rìu, dao quắm, gậy chọc lỗ, cái nạo cỏ, khi thu hoạch thì dùng tay tuốt lúa. Cách thức làm ruộng tương tự như ở người Việt vùng nam Trung bộ (dùng cày, bừa có đôi trâu kéo, biết gieo mạ và cấy, dùng liềm và vằng để gặt...) nhưng còn thấy dấu vết của tập quán trồng lúa rẫy.

Từng gia đình thường nuôi trâu, lợn, chó, gà. Nghề thủ công chỉ có đan lát và dệt vải nhưng nay cũng không phát triển, nhất là nghề dệt chỉ còn ở vài nơi. Việc giao lưu hàng hoá thường theo hình thức trao đổi vật trực tiếp. Hái lượm, săn bắt và đánh cá cung cấp nguồn thức ăn quan trọng cho mỗi gia đình.

Ăn: Người Hrê thường ngày ăn cơm tẻ, ngày lễ tết có thêm cơm nếp. Thức ăn chủ yếu là những thứ kiếm được và muối ớt, khi có cúng bái thì thịt con vật hiến sinh được dùng làm đồ nhắm và cải thiện bữa ăn. Thức ăn đựng trong các vật làm bằng mo cau. ¡n bốc. Thức uống có nước lã, nước chè xanh, rượu cần (nay rượu cất khá thông dụng). Tập quán hút thuốc lá và ăn trầu cau phổ biến.

: Người Hrê sống chủ yếu ở miền tây tỉnh Quảng Ngãi (các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long) và tỉnh Bình Ðịnh (huyện An Lão), một số ít ở tỉnh Kon Tum (huyện Kon Plông). Nhà sàn có cửa ra vào ở mỗi đầu và một mặt bên, có 2 hàng cột tạo thành 2 vì cột, trên đỉnh đốc có hình cặp sừng thú, vách nghiêng phía trên ra ngoài. Mặt sàn thường hơi cao một chút về bên không đặt bếp đun, nhằm tạo thế nằm thoải mái: chân thấp hơn đầu. Nhà ở trong làng đều dựng ngang triền đất dốc, tránh để đòn nóc chĩa hướng chắn ngang dòng chảy của sông suối.

Ngày nay, hầu hết người Hrê mặc theo kiểu người Việt: tuy nhiều phụ nữ còn dùng váy nhưng không phải loại vải sợi bông tự làm ra với những dải hoa văn ở hai đầu ống váy và khi mặc không tạo thành hai tầng như xưa.

Mặc: Theo nếp cũ, đàn ông đóng khố, chít khăn, khi dự lễ hội hoặc đi xa thì mặc áo; đàn bà có váy ống mặc kiểu hai tầng. Có áo, khăn trùm đầu. Những vòng đeo trang sức làm bằng đồng bạc, nhôm và chuỗi cườm; riêng nam giới không trang sức ở tai.

Phương tiện vận chuyển: Người Hrê quen dùng gùi sau lưng, mỗi quai gùi quàng giữ vào một vai: chở thóc gạo thì dùng gùi đan dày, chở củi, sắn thì có gùi mắt thưa, đàn ông đi rừng hay đi trận có riêng loại gùi như chiếc túi hoặc gùi ba ngăn. Ngoài ra, người Hrê còn gánh lúa khi gặt và đội đồ vật trên đầu.

Quan hệ xã hội: Già làng có uy tín và ảnh hưởng lớn. Trước kia sự phân hoá xã hội đã khá sâu sắc, chế độ tôi tớ - đặc biệt là đi ở vì nợ - có phần khắc nghiệt hơn nhiều tộc Thượng khác, hiện tượng tranh chiếm và tập trung ruộng đất (theo đó là sự xác lập quyền thế của một số cá nhân) đã tương đối phát triển. Tuy vậy, quan hệ trong làng vẫn thể hiện tinh thần cộng đồng công xã.

Cưới xin: Cư trú phía chồng hay phía vợ là tuỳ thoả thuận giữa hai gia đình, phần đông sẽ dựng nhà ở riêng sau khi có con đầu lòng. Ðám cưới có nghi thức dâu và rể kết gắn với nhau thông qua việc trao bát rượu, miếng trầu cho nhau hay quàng chung một vòng dây sợi... Vợ goá có thể lấy tiếp em chồng, chồng có thể lấy cả em vợ. Con cô - con cậu, con gì - con già, con có chung mẹ hoặc cha đều không được lấy nhau.

Sinh đẻ: Việc sinh đẻ diễn ra bên cạnh bếp lửa trong nhà, có là đỡ hộ sinh, cắt rốn bằng dao, cái rau được gói trong mo cau rồi đem bỏ trong rừng hoặc chôn cạnh nhà. Sản phụ nghỉ ngơi vài chục ngày, kiêng ăn cá niêng, trứng, chuối, thịt gà trắng... Ðứa bé đầy tháng mới làm lễ đặt tên.

Ma chay: Quan tài độc mộc có dáng hao hao chiếc thuyền. Người chết được quàn tại nhà từ 1 đến 3 ngày rồi chôn trong bãi mộ của làng. Mộ đắp thành gò dài trên dựng nhà mồ có nóc mái làm như nhà ở. Tang gia "chia của" tựa hồ cho người chết đi ở riêng: từ đồ ăn thức uống cho đến vật dụng trong nhà, từ trang phục, công cụ lao động... đều có ở mộ.

Thờ cúng: Người Hrê có nhiều kiêng cữ và lễ thức tôn giáo, xuất phát từ quan niệm mọi vật đều có hồn hay ma và con người bị các lực lượng siêu nhiên chi phối. Khi ốm đau, rủi ro, khi làm nhà, mang thai, đẻ khó, có người chết, khi gieo cấy và gặt hái, khi gieo trỉa và tuốt lúa, khi đưa thóc lên kho và lần đầu lấy thóc về ăn... đều cúng bái. Cộng đồng làng chỉ tổ chức cúng cầu an, tránh dịch bệnh, còn lại đều là các lễ cúng của gia đình.

Lễ tết: Lễ hội có đâm trâu là lớn nhất, dù đó là lễ của làng hay một nhà cũng đông vui. Hàng năm, người Hrê ăn tết vào khoảng tháng 10, sau khi thu hoạch lúa, nay nhiều làng theo tết Nguyên đán. Ngày tết có cúng cho trâu và lợn, cầu sinh sôi, cúng mời tổ tiên và cúng sức khoẻ cho mọi người trong nhà; có bánh gói bằng gạo nếp, rượu, thịt... Dịp tết làng làm lễ cúng tập thể cầu mong mưa thuận, đủ nước.

Lịch: Cách tính tương tự âm lịch của người Việt. Trong tháng, phân biệt ngày tốt, ngày xấu và chọn ra những ngày nên làm việc này, không nên làm việc kia.

Văn nghệ: Nhạc cụ thường dùng là bộ chiêng ba chiếc, bộ cồng ba chiếc, trống, các loại đàn ống tre hoặc có vỏ bầu làm hợp âm, sáo, nhị, đàn môi, nữ giới chơi bộ ống vỗ hai chiếc. Dân ca phổ biến nhất là điệu Katê và Ka choi. Truyện cổ (Hmon) được lưu truyền như một vốn quý trong văn hoá dân tộc, gồm những đề tài khác nhau. Các mô típ hoa văn hình học dệt trên vải và thể hiện trên đồ đan cũng mang tính truyền thống lâu đời.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm