Từ bao đời nay, vùng đất dưới chân núi Ngọc Linh trải dài theo trục con sông Tranh là nơi định cư lâu đời của tộc người Cadong. Họ sống hoàn toàn dựa vào thiên nhiên, mọi vật dụng và đồ dùng phần lớn đều được làm từ tre, nứa, lồ ô, trong đó có nghề đan võng từ cây sari nhằm phục vụ trong sinh hoạt hằng ngày. Đến đây, người ta thường bắt gặp những người già, phụ nữ, trẻ em Cadong nằm trên chiếc võng đu đưa dưới những mái hiên nhà sàn.
Sari là loài cây thân gỗ, vỏ màu xám, nứt dọc, mọc rất nhiều ven những con suối lớn quanh vùng mà người Cadong sinh sống. Từ xưa, người Cadong đã phát hiện ra đặc tính của thân cây sari nên đã sử dụng vỏ của nó làm áo, váy, khố, chăn đắp, dùng làm dây cột nhà, làm võng.
Hằng năm, vào khoảng tháng 7 và tháng 8, khi sari trổ hoa, đàn ông Cadong lại vào rừng tìm cây sari về làm võng. Theo người Cadong, vào mùa sari nở hoa thì vỏ và xơ của nó rất mềm nên việc khai thác dễ dàng hơn. Người Cadong thường chọn cây sari lớn bởi vỏ có độ bền cao. Sau khi đốn cây về, người Cadong dùng cây đập vỏ, mang ra suối ngâm chừng 10 ngày cho vỏ tiết hết chất đắng, sau đó vớt lên, tiếp tục dùng cây đập lớp vỏ xơ này đến khi mềm, rồi dùng tay tước từng lớp xơ màu trắng đục ra, giặt sạch và tước thành từng sợi mang ra phơi nắng cho thật khô là có thể đan võng.
Như bao phụ nữ Cadong khác, bà Hồ Thị Chơn (70 tuổi, ở thôn 2, xã Trà Bui, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam) đã được mẹ dạy đan võng sari từ nhỏ; từ đó đến nay, không biết bao nhiêu chiếc võng sari đã được đan từ bàn tay khéo léo của bà Chơn. Những sợi sari mỏng, qua bàn tay cần mẫn của bà Chơn, được se vào nhau kết nối thành những sợi dài. Bà khéo léo, tỉ mẩn bện chúng thành nhiều đốt xoen, mắt võng đều tăm tắp.
Theo bà Chơn, một cái võng được đan từ cây sari gồm có hai đầu võng. Khi tạo được một đầu rồi thì đầu võng thứ hai dễ hơn vì chỉ cần để dư múi ra rồi thắt nó lại. Để cột được đầu võng, người đan phải đan theo chiều dài khoảng mười mấy múi dây. Không được để múi dây chẵn vì sẽ không có múi dây dư ra để cột thành đầu võng. Người đan võng tuyệt đối không được đan lỗi vì khi đã bị lỗi thì chiếc võng nhìn trông như mớ bùi nhùi, muốn gỡ ra cũng không được.
Võng sari được đan theo kỹ thuật riêng biệt và hoàn toàn thủ công. Quy trình đan võng này thật công phu, đòi hỏi người đan không những khéo léo mà còn phải kiên trì, bền bỉ. Phải mất khoảng hai tháng, người đan mới có thể hoàn thành chiếc võng. Một chiếc võng đan đúng cách, đẹp có độ bền tới 10 năm. Chiếc võng được làm ra từ cây sari nói lên sự cần cù, sáng tạo của người Cadong, và nó còn mang vẻ đẹp hài hòa với thiên nhiên, như một hình ảnh đặc trưng văn hóa của người Cadong nơi đây.
So với các loại võng khác, võng làm từ cây sari cực bền và khi nằm cảm giác rất dễ chịu. Học đan võng từ cây sari không hề đơn giản. Nó đòi hỏi người học phải kiên trì nhìn cách đan mà nhớ chứ chỉ bày thì rất khó. Có lẽ vì sự phức tạp và nhiều công đoạn ấy mà rất ít người Cadong học được nghề này. Những người biết đan võng như bà Chơn còn rất ít. Người lớn thì tập trung thời gian đi làm trên rẫy, ngày mùa bận rộn đã chiếm hết thời gian, còn bọn trẻ thì tập trung hết vào học hành. Nghề đan võng bây giờ lớp trẻ giờ chẳng còn ai theo học. Chỉ còn số ít người Cadong lớn tuổi, gắn bó với nghề truyền thống của ông bà, phần vì cố gắng giữ nghề đang dần mai một.
Trước khi chúng tôi rời huyện vùng cao Bắc Trà My để về lại dưới xuôi, bà Hồ Thị Chơn đã nhượng lại cho Bảo tàng Quảng Nam chiếc võng mà bà vừa đan xong từ cây sari, như minh chứng về nghề đan võng truyền thống của người Cadong. Còn chúng tôi, những người làm công tác văn hóa rất đỗi vui mừng vì đã có thêm hiện vật dân tộc vào loại quý hiếm để trưng bày góp phần làm phong phú hơn trong kho tàng văn hóa vật thể - phi vật thể của cộng đồng dân tộc Cadong trên vùng Trường Sơn với ước mong một ngày không xa, nghề đan võng truyền thống từ cây sari của dân tộc Cadong sẽ hưng thịnh trở lại như xưa.
Theo baodaklak.vn
Tên tự gọi: Xơ Teng (Hđang, Xđang, Xđeng), Tơ Ðrá (Xđrá, Hđrá), Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng (Xlang), Tà Trĩ (Tà Trê), Châu.
Tên gọi khác: Xê Đăng, Hđang, Kmrâng, Con lan, Brila.
Nhóm địa phương: Xơ Teng, Tơ Ðrá, Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng, Tà Trĩ, Châu.
Dân số: 169.501 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng Xơ Ðăng thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), gần với tiếng Hrê, Ba Na, Gié Triêng. Giữa các nhóm có một số từ vựng khác nhau. Chữ viết dùng hệ chữ cái La-tinh, mới hình thành cách đây mấy chục năm.
Lịch sử: Người Xơ Ðăng thuộc số cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên và vùng lân cận thuộc miền núi của Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Hoạt động kinh tế: Một bộ phận trồng lúa nước, điển hình là nhóm Mnâm làm ruộng theo lối sơ khai: làm đất bằng cách lùa đàn trâu dẫm quần và dùng cuốc đẽo từ gỗ (nay đã có cuốc lưỡi sắt)... Còn lại, kinh tế rẫy đóng vai trò chủ đạo, với công cụ và cách thức canh tác tương tự như những tộc người khác trong khu vực. Chặt cây bằng rìu và dao quắm hay xà gạc, đốt bằng lửa; chọc lỗ để tra hạt giống thì dùng gậy đẽo nhọn hay gậy có lưỡi sắt; làm cỏ bằng loại cuốc con có cán lấy từ chạc cây và cái nạo có lưỡi bẻ cong về một bên; thu hoạch thì dùng tay tuốt lúa. Ngoài lúa, người Xơ Ðăng còn trồng kê, ngô, sắn, bầu, bí, thuốc lá, dưa, dứa, chuối, mía... Vùng người Ca Dong có trồng quế. Vật nuôi truyền thống là trâu, dê, lợn, chó, gà. Việc hái lượm, săn bắn, kiếm cá có ý nghĩa kinh tế không nhỏ.
Nghề dệt vải có ở nhiều vùng. Nghề rèn phát triển ở nhóm Tơ Ðrá, họ biết chế sắt từ quặng để rèn. Một số nơi người Xơ Ðăng đã biết đãi vàng sa khoáng. Ðan lát phát triển, cung cấp nhiều vật dụng. Họ ưa thích trao đổi vật trực tiếp, nay đã dùng tiền.
Ăn: Người Xơ Ðăng ăn cơm tẻ, cơm nếp với muối ớt và các thức kiếm được từ rừng; khi cúng bái mới có thịt gia súc, gia cầm. Phổ biến là món canh nấu rau hoặc măng lẫn thịt hay cá, ốc và các món nướng. Họ uống nước lã (nay nhiều người đã đun chín), rượu cần. Ðặc biệt rượu được chế từ loại kê chân vịt ngon hơn rượu làm từ gạo, sắn.
Một số nơi người Xơ Ðăng có tập quán ăn trầu cau. Nam nữ đều hút thuốc lá; có nơi, đồng bào đưa thuốc lá nghiền thành bột vào miệng thay vì hút trong tẩu.
Mặc: Nam đóng khố, ở trần. Nữ mặc váy, áo. Trời lạnh dùng tấm vải choàng người. Trước kia, nhiều nơi người Xơ Ðăng phải dùng y phục bằng vỏ cây. Nay đàn ông thường mặc quần áo như người Việt, áo nữ cũng là áo cánh, sơ mi, váy bằng vải dệt công nghiệp. Vải cổ truyền Xơ Ðăng có nền màu trắng mộc của sợi hoặc màu đen, hoa văn ít và chủ yếu thường dùng các màu đen, trắng, đỏ.
Ở: Người Xơ Ðăng cư trú ở tỉnh Kon Tum và hai huyện Trà My, Phước Sơn tỉnh Quảng Nam, huyện Tây Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; sống tập trung nhất ở vùng quần sơn Ngọc Linh. Họ ở nhà sàn, trước kia nhà dài, thường cả đại gia đình ở chung (nay phổ biến hình thức tách hộ riêng). Nhà ở trong làng được bố trí theo tập quán từng vùng: có nơi quây quần vây quanh nhà rông ở giữa, có nơi dựng lớp lớp ngang triền đất và không có nhà rông. Kỹ thuật làm nhà chủ yếu là sử dụng ngoàm và buộc dây, mỗi hàng cột chạy dọc nhà được liên kết thành một vì cột, mỗi ngôi nhà có một vì cột, mỗi ngôi nhà có hai vì cột.
Phương tiện vận chuyển: Gùi được dùng hàng ngày chuyên chở hầu như mọi thứ trên lưng, mỗi quai khoác vào một vai. Có các loại gùi khác nhau: đan thưa, đan dày, có nắp, không nắp, có hoa văn, không có hoa văn... Nam giới còn có riêng gùi 3 ngăn (gùi "cánh dơi") hoặc gùi gần giống hình con ốc sên. Gùi ở các nhóm Xơ Ðăng có sự khác biệt nhau nhất định về kiểu dáng, kỹ thuật đan.
Quan hệ xã hội: Từng làng có đời sống tự quản, đứng đầu là ông "già làng". Lãnh thổ của làng là sở hữu chung, trên đó mỗi người có quyền sở hữu ruộng đất để làm ăn. Tuy đã hình thành giàu - nghèo nhưng chưa có bóc lột một cách rõ rệt, xưa kia nô lệ mua về và người ở đợ không bị đối xử hà khắc. Quan hệ cộng đồng trong làng được đề cao.
Cưới xin: Phong tục ở các vùng không hoàn toàn giống nhau. Song, phổ biến là cư trú luân chuyển mỗi bên mấy năm, thường khi cha mẹ qua đời mới ở hẳn một chỗ. Ðám cưới có lễ thức cô dâu chú rể đưa đùi gà cho nhau ăn, đưa rượu cho nhau uống, cùng ăn một mâm cơm... để tượng trưng sự kết gắn hai người. Không có tính chất mua bán trong hôn nhân.
Ma chay: Cả làng chia buồn với tang chủ và giúp việc đám ma. Quan tài gỗ đẽo độc mộc. Những người chết bình thường được chôn trong bãi mộ chung của làng. Lệ tục cụ thể không hoàn toàn thống nhất giữa các nhóm. Không có lễ bỏ mả như người Ba Na, Gia Rai... Tục "chia của" cho người chết (đồ mặc, tư trang, công cụ, đồ gia dụng...) phổ biến.
Thờ cúng: Người Xơ Ðăng tin vào sức mạnh siêu nhiên, các "thần" hay "ma" được gọi là Kiak (Kia) hoặc "Ông", "Bà", chỉ một số nơi gọi là "Yàng". Các thần quan trọng như thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa, thần nước... Thần nước hiện thân là thuồng luồng, hoặc con "lươn" khổng lồ, hoặc con lợn mũi trắng. Thần lúa có dạng bà già xấu xí, tốt bụng, thường biến thành cóc. Trong đời sống và canh tác rẫy có rất nhiều lễ thức cúng bái đối với các lực lượng siêu nhiên, tập trung vào mục đích cầu mùa, cầu an, tránh sự rủi ro cho cộng đồng và cá nhân.
Lễ tết: Quan trọng nhất là lễ cúng thần nước vào dịp sửa máng nước hàng năm, các lễ cúng vào dịp mở đầu năm làm ăn mới, mở đầu vụ trỉa lúa, khi lúa đến kỳ con gái, khi thu hoạch, các lễ cúng khi ốm đau, dựng nhà rông, làm nhà mới, khi con cái trưởng thành... Nhiều dịp sinh hoạt tôn giáo đồng thời có tính chất hội hè của cộng đồng làng, tiêu biểu là lễ trước ngày trỉa, lễ cúng thần nước, lễ có đâm trâu của làng cũng như gia đình. Tết dân tộc tổ chức trước sau tuỳ làng, nhưng thường trong tháng Giêng (dương lịch), kéo dài 3-4 ngày.
Lịch: Cách tính lịch một năm có 10 tháng, gắn với một chu kỳ làm rẫy, sau đó là thời gian nghỉ sản xuất kéo dài cho đến khi bước vào vụ rẫy mới. Mỗi tháng 30 ngày. Trong ngày được chia ra các thời điểm với tên gọi cụ thể. Phân biệt ngày tốt, ngày xấu, ví dụ: ngày cuối tháng nếu trồng ngô sẽ nhiều hạt, chặt tre nứa dùng sẽ không bị mọt...
Văn nghệ: Người Xơ Ðăng có nhiều loại nhạc cụ (đàn, nhị, sáo dọc, ống vỗ kloongbút, trống, chiêng, cồng, tù và, ống gõ, giàn ống hoạt động nhờ sức nước...). Có loại dùng giải trí thông thường, có loại dùng trong lễ hội. Các loại nhạc cụ cụ thể và điệu tấu nhạc có sự khác nhau ít nhiều giữa các nhóm. Những điệu hát phổ biến là: hát đối đáp của trai gái, hát của người lớn tuổi, hát ru. Trong một số dịp lễ hội, đồng bào trình diễn múa: có điệu múa riêng cho nam, riêng cho nữ, cũng có điệu múa cả nam, nữ cùng tham gia. Truyện cổ Xơ Ðăng phong phú và đặc sắc.
Theo cema.gov.vn