Ngày 13/7, tại buôn Đung (xã Đắk Phơi, huyện Lắk), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk tổ chức phục dựng Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia: Lễ mừng thọ của người M’nông năm 2023.
Lễ mừng thọ của người M’nông ở huyện Lắk là một trong hai di sản của tỉnh Đắk Lắk được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2022. Lễ mừng thọ của người M’nông thường tổ chức vào tháng 1 - 2 dương lịch hằng năm, sau khi đã kết thúc mùa nương, rẫy. Theo phong tục truyền thống của người M’nông, khi cha mẹ đã hơn 60 tuổi, con cái trong gia đình sẽ tổ chức lễ mừng thọ nhằm thể hiện sự biết ơn công lao đã sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ.
Lễ vật chính gồm một con lợn, ba chén cơm, một con gà, một quả bầu khô đựng đầy nước, một bếp than đỏ, một ché rượu cần lớn và 3 ché rượu cần nhỏ. Tham gia Lễ cúng gồm: Thầy cúng, thầy phụ cúng, người được cúng mừng thọ, đội nghệ nhân đánh chiêng, tổ phục vụ, hộ gia đình tham gia lễ mừng thọ, già làng, nhân dân của buôn Đung. Với người M’nông, mỗi khi tổ chức nghi lễ dù lớn hay nhỏ tại gia đình đều có sự quan tâm, tham gia của cộng đồng buôn làng. Điều này thể hiện tinh thần đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau, giáo dục cho con cháu trong gia đình, giáo dục buôn làng nếp ăn lối ở, tính siêng năng, trung thực và sống có trách nhiệm với gia đình, cộng đồng.
Bắt đầu nghi lễ cúng Lễ mừng thọ, thầy cúng, thầy cúng phụ và tổ phục vụ hỗ trợ thầy cúng cùng sắp xếp tất cả các lễ vật, bày biện mâm cơm cúng. Khi tất cả các lễ vật đã được bày biện đầy đủ thì thầy cúng sẽ cúng lễ mừng thọ. Thầy cúng ngồi trước các lễ vật, ngồi cạnh là người được tổ chức lễ mừng thọ. Thầy cúng gọi Yàng gồm thần núi, thần rừng, thần nước để xin phép được tổ chức lễ mừng thọ. Sau đó, thầy cúng cầu khấn mong thần linh phù hộ cho người được mừng thọ có sức khỏe, sống lâu cùng con cháu. Người cha, người mẹ (người được tổ chức lễ mừng thọ) cầm cần uống rượu và tiếp tục cầu khấn mong thần linh luôn ở bên cạnh che chở, phù hộ những điều tốt đẹp nhất.
Các con cháu trong gia đình lần lượt thay phiên nhau gắp thức ăn, mời rượu cần, tặng lễ vật cho người được mừng thọ (cha, mẹ, ông, bà). Lễ vật thường là một bộ quần áo thổ cẩm truyền thống, đôi chăn thổ cẩm, ché rượu cần, vòng đồng… Tiếp đó, con cháu nói lời cầu chúc cho người được mừng thọ.
Sau khi được chúc mừng thọ và tặng quà, người con sẽ mời họ hàng, anh em gia đình, mời bà con cùng nhau dùng bữa cơm thân mật đã được bày biện sẵn. Xuyên suốt quá trình tổ chức lễ, đội đánh chiêng sẽ diễn tấu chiêng liên tục cho đến khi lễ kết thúc. Khi tổ chức lễ mừng thọ, bà con trong buôn cầu mong cho người được cúng có sức khỏe dồi dào, sống vui khỏe với con cháu và làm gương để dạy bảo con cháu trong làm ăn và dặn dò con cháu học hành để có cuộc sống tốt đẹp hơn, cùng nhau xây dựng buôn làng giàu đẹp hơn.
Lễ mừng thọ của người M’nông được tổ chức đơn giản nhưng mang nhiều ý nghĩa. Đây là dịp để con cháu thể hiện tấm lòng hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ. Truyền thống đạo hiếu của gia đình, cộng đồng được khơi dậy qua nghi lễ thiêng liêng thể hiện tình yêu thương, kính trọng người cao tuổi và lòng biết ơn của con cháu dành cho đấng sinh thành.
Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk Lại Đức Đại cho biết, Lễ mừng thọ của người M’nông là một nghi lễ không thể thiếu trong đời sống của người M’nông, là một truyền thống tốt đẹp của cộng đồng cần được bảo tồn, phát huy và lưu truyền. Việc phục dựng Lễ mừng thọ của người M’nông nhằm tái hiện một không gian văn hóa truyền thống của người M’nông nói riêng, người dân tộc thiểu số nói chung. Qua đó, góp phần động viên và giúp cộng động hiểu rõ hơn về các phong tục tập quán, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong công tác giữ gìn, bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp của 49 dân tộc anh em sinh sống trên địa bàn tỉnh. Đây cũng là cơ hội để quảng bá hình ảnh, con người Đắk Lắk, đặc biệt là văn hóa truyền thống của các dân tộc đến với du khách trong nước và quốc tế.
Hoài Thu
Tên tự gọi: Mnông.
Nhóm địa phương: Mnông Gar, Mnông Nông, Mnông Chil, Mnông Kuênh, Mnông Rlâm, Mnông Preh, Mnông Prâng, Mnông Ðíp, Mnông Bhiêt, Mnông Sitô, Mnông Bu Ðâng, Mnông Bu Nor, Mnông Bu Ðêh...
Dân số: 102.741 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Người Mnông là cư dân sinh tụ lâu đời ở miền trung Tây Nguyên nước ta.
Hoạt động sản xuất: Người Mnông trồng lúa nương trên rẫy bằng phương pháp "đao canh hoả chủng": phát, đốt rồi chọc lỗ tra hạt; thu hoạch theo lối tuốt lúa bằng tay. Họ trồng lúa nước bằng phương pháp "đao canh thuỷ nậu" trên những vùng đầm lầy, dùng trâu để quần ruộng cho nhão đất rồi gieo hạt, không cấy mạ như ở đồng bằng. Ðiều đáng lưu ý là vai trò của cái cuốc trong nền nông nghiệp cổ truyền Mnông. Ði đôi với nền sản xuất nông phẩm, việc săn bắn, hái lượm còn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày.
Sản xuất thủ công nghiệp gia đình phổ biến là nghề đan đồ gia dụng bằng nguyên liệu mây, tre, lá; thứ đến là nghề trồng bông dệt vải do phụ nữ đảm nhiệm. Trong mỗi làng còn có một số người biết làm gốm thô, nặn bằng tay và nung lộ thiên. Sản phẩm là nồi đất các loại, bát ăn cơm và vò, hũ. Nghề rèn nông cụ không được phát triển lắm trong các vùng Mnông. Ðặc biệt ở vùng Buôn Ðôn, cư dân có nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng rất nổi tiếng. Cho đến nay nghề này vẫn được tiếp tục duy trì tuy số voi săn bắt được hàng năm đã giảm đi đáng kể.
Ăn: Họ ăn cơm gạo tẻ nấu trong những nồi đất nung, xa xưa thì phổ biến là cơm lam (gạo nếp nấu trong ống nứa). Bữa ăn trưa ở trên ruộng rẫy thường là món cháo chua đựng trong những trái bầu khô. Thức ăn chủ yếu là muối ớt, canh rau rừng, thịt chim, thú và cá suối bắt được. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm không phát triển. Rau củ được trồng trên rẫy để bổ sung cho nguồn thức ăn do hái lượm đem lại. Thức uống phổ biến là rượu cần.
Mặc: Về mùa nóng, đàn ông xưa kia thường đóng khố ở trần; còn đàn bà thì quấn váy tấm và cũng ở trần. Về mùa lạnh, họ khoác thêm trên mình một tấm mền, kiểu phục sức rất phổ biến ở Trường Sơn - Tây Nguyên. Hiện nay trong trang phục Mnông đã tiếp thu nhiều yếu tố Việt. Tập quán "cà răng căng tai" phổ biến trong xã hội cổ truyền, đến nay chỉ còn lại dấu ấn ở lứa tuổi những người cao niên.
Ở: Hiện nay người Mnông cư trú tập trung theo nhóm địa phương, chủ yếu ở các huyện: Lắc, Mdrắc, Ðắc Nông, Ðắc Mil, Krông Pách, Ea Súp, Buôn Ðôn... thuộc tỉnh Ðắk Lắk; một bộ phận cư trú ở phía bắc tỉnh Sông Bé và tây nam tỉnh Lâm Ðồng; địa bàn phân bố về phía tây đến tận miền đông Cam-pu-chia, giáp ranh với biên giới nước ta. Tuỳ theo vùng và từng nhóm địa phương mà họ xây cất nhà trệt hoặc nhà sàn.
Nhà trệt có mái tranh gần sát đất và nền đất là mặt bằng sinh hoạt, rất phổ biến ở nhóm Mnông Gar, Mnông Preh, Mnông Prâng... Còn nhà sàn thường là sàn thấp, chỉ cách mặt đất khoảng 0m70 đến1m00 và phổ biến ở nhóm Mnông Kuênh, Mnông Chil, Mnông Bhiêt... Riêng nhóm Mnông Rlâm ở vùng hồ Lắc xây cất nhà sàn cao theo kiến trúc của người Ê Ðê. Dù là nhà sàn hay nhà trệt thì mái vẫn là cỏ tranh: khung và sườn nhà được kết hợp 2 loại nguyên liệu là tre nứa và gỗ cây... Các bộ phận được liên kết bằng chạc, ngoãm, dây mây và dây rừng.
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng nhờ có 2 quai quàng qua đôi vai. Việc vận chuyển bằng voi là phương thức đặc biệt được chú trọng ở vùng người Mnông. Việc đi lại, vận chuyển trên sông, hồ có thuyền độc mộc.
Quan hệ xã hội: Ðơn vị cư trú cơ bản gọi là bon hay uôn, tương ứng với làng, xóm. Các gia đình trong làng có quan hệ láng giềng, quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân. Làng nhỏ có độ mươi nóc nhà, làng lớn có khi tập trung đến vài chục nóc. Quan hệ huyết thống ở đây tính theo dòng họ mẹ. Dấu vết của chế độ mẫu hệ còn rất đậm nét trong mọi quan hệ xã hội hiện nay. Song tập quán mẫu hệ đã và đang tan rã ở nhiều thang bậc khác nhau theo từng nhóm địa phương.
Trong xã hội cổ truyền người đứng đầu mỗi làng gọi là Rnút hay Kroanh bon, bên cạnh có người phụ tá gọi là Rnoi, Rnớp. Khi cần chiến đấu thì cử ra một chức sắc gọi là Né tăm lăm lở làm thủ lĩnh quân sự. Xã hội Mnông vận hành theo tập quán pháp và Tập quán pháp ca được truyền khẩu qua các thế hệ để làm chuẩn mực cho mọi ứng xử trong đời sống.
Cưới xin: Phụ nữ thường chủ động hơn trong việc hôn nhân. Lễ cưới do 2 bên cùng tổ chức. Sau hôn nhân phổ biến là cư trú phía nhà gái. Ở nhiều nhóm địa phương lại phổ biến hình thức luân cư song phương. Con sinh ra đều mang họ mẹ. Trong tập quán cưới xin có 3 nghi lễ là Sa ur, Tâm ốp và Tám nsông tương ứng với lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ thành hôn. Chế độ một vợ một chồng là quy tắc chặt chẽ trong quan hệ hôn nhân. Luật tục Mnông phạt vạ rất nghiêm khắc với tội loạn luân và ngoại tình.
Ma chay: Khi có người chết, cả làng nghỉ việc đồng áng để cùng lo mai táng, ma chay. Thi hài được quàn tại nhà khoảng 2 ngày đối với người chết già, chết vì bệnh tật. Họ rất kinh hãi và chối bỏ việc ma chay đối với mọi cái chết do tai nạn gây nên (chết đuối, ngã cây, rắn cắn, hổ vồ... và chết do chiến tranh, đâm chém). Những cái chết "bất đắc kỳ tử" như vừa nêu thì thi hài không được đem vào nhà mà phải mai táng tức khắc một cách thầm lặng. Thổ táng là hình thức duy nhất trong việc tang ma, không có tập quán cải táng. Mọi người chết đều được chia tài sản để mang về "lập nghiệp" ở thế giới của ông bà gọi là Phan.
Nhà mới: Khi một ngôi nhà được xây cất hoàn tất thì lễ khánh thành để vào nhà mới sẽ được tổ chức linh đình bằng một ngày tiệc mặn cúng hiến sinh heo. Sau bữa ăn rồi mới đến tiệc rượu cần rất rôm rả trong tiếng nhạc cồng chiêng.
Lễ tết: Lễ hội đâm trâu là lễ hội cổ truyền được coi trọng nhất. Kết thúc mùa thu hoạch lúa hàng năm, mỗi làng đều tổ chức tết ăn mừng cơm mới, tạ ơn trời đất và thần lúa. Trâu được hiến sinh trong hội lễ tưng bừng để chuẩn bị cho một mùa vụ mới tràn đầy hy vọng.
Lịch: Nông lịch cổ truyền Mnông tính theo lịch âm, dựa vào quy trình canh tác rẫy. Mỗi năm cũng có 12 tháng, mỗi tháng có từ 29 đến 30 ngày.
Học: Trong xã hội cổ truyền Mnông chưa có chữ viết, chỉ có văn chương truyền miệng. Việc giáo dục, học tập được thực hiện bằng phương pháp chỉ dẫn trực tiếp, làm mẫu noi theo, bắt chước. Thập kỷ gần đây mới xuất hiện chữ viết nhưng sự phổ biến rộng rãi đang vấp phải không ít trở ngại.
Văn nghệ: Kho tàng truyện cổ, đặc biệt là sử thi và tập quán pháp ca tiềm ẩn nhiều giá trị, đã và đang được khai thác giới thiệu. Tục ngữ, ca dao, dân ca rất phong phú. Nhạc cụ có cồng chiêng, kèn bầu, kèn sừng trâu, kèn môi, đàn độc huyền, đàn 8 dây, sáo dọc. Ðặc biệt là vỏ trái bầu khô được sử dụng một cách phổ biến để tạo nên bộ phận khuếch đại âm thanh trong nhiều nhạc cụ bằng tre, nứa. Người ta đã tìm thấy ở vùng cư trú của người Mnông bộ đàn đá nguyên thuỷ nổi tiếng từ giữa thế kỷ XX.
Chơi: Trẻ em thường thích chơi diều, đánh cù, bịt mắt bắt dê, chạy, nhảy...
Theo cema.gov.vn