Sinh sống trên những vùng núi cao nên người Bố Y là một dân tộc có đời sống tinh thần phong phú, là dân tộc có lòng vị tha, cởi mở và luôn sống chan hòa, đoàn kết với các dân tộc khác cùng nhau xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng, bảo vệ biên giới Tổ quốc. Trong đời sống hàng ngày người Bố Y quan niệm: “ Vạn vật hữu linh”, mọi vật từ cây cỏ đến sinh vật và con người đều có hồn – Hồn tồn tại vĩnh hằng.
Họ quan niệm trẻ sơ sinh đến 12 tuổi linh hồn được mẹ mụ (Mỉa vẳng) nâng đỡ, bảo hộ. Từ 13 tuổi trở lên hồn được mẹ đỡ (Mỉa păng) phù hộ luôn luôn khoẻ mạnh, may mắn. Trong tâm linh người Bố Y tin rằng có 6 loại hồn tồn tại trong cuộc sống, đó là những hồn có những nhiệm vụ khác nhau: có hồn chuyên làm nhiệm vụ canh giữ mồ mả; hồn chuyên môn đi chợ mua bán; hồn ở nhà và ngồi trên bàn thờ; hồn ngồi trên vai con người làm nhiệm vụ phù hộ con người luôn mạnh khoẻ; hồn bảo vệ mùa màng gia súc; hồn lên thiên đàng. Đàn ông, đàn bà hồn đều giống nhau. Hồn tồn tại trong người sống, khi chết đi hồn hoá thành ma. Có nhiều loại ma: ma lành không hại người, ma ác có các loại ma Ngũ hải (ma gà), ma đói, ma rừng.
Nghi lễ cũng hồn của người Bố Y. |
Quan niệm về thế giới quan
Người Bố Y quan niệm vũ trụ chia làm 3 thế giới: Thế giới thứ nhất là cõi trên: đây là nơi ở của các vị thần tiên và cũng có con người sinh sống. Người ở cõi này cũng sinh nở và nuôi con, họ cõng con trên vai. Thế giới thứ hai là cõi giữa: đây là cõi con người bình thường sinh sống, cõi trần gian. Người cõi này nuôi con và cõng con ở giữa (cõng con trên lưng). Thế giới thứ ba là cõi dưới cùng: đây là thế giới tí hon (tiếng Bố Y gọi là "cúng kính"). Ở cõi này con người chỉ cao bằng đầu gối người trần gian. Họ nuôi và cõng con ở bắp chân, nấu cơm bằng vỏ trứng.
Mâm cúng của người Bố Y. |
Người Bố Y cho rằng có cuộc sống sau cái chết. Khi trong gia đình có người chết, con cháu chia cho trâu, bò để người chết sau khi sang thế giới bên kia còn có trâu, bò để cày bừa làm ăn. Gia đình nào có nguồn gốc buôn bán thì chỉ phải chia lợn cho người chết. Con gái, con rể người chết thì làm đèn lồng, nhà lầu, chuồng gà để cúng theo.
Cũng như các dân tộc Bố Y ở các tỉnh khác, tại xã Quyết Tiến người Bố Y tuy có số dân ít nhưng họ vẫn giữ được bản sắc văn hóa của dân tộc mình dù sống cùng với các dân tộc khác nhưng họ vẫn không bị ảnh hưởng quá nhiều. Trong những năm đổi mới, Nhà nước ta đã có rất nhiều chính sách để phát triển kinh tế xã hội cho các dân tộc thiểu số để cuộc sống được nâng lên nhưng nhìn chung do điều kiện địa hình, phong tục tập quán vẫn còn nhiều thủ tục lạc hậu nên đời sống của đồng bào vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Tên tự gọi: Bố Y.
Tên gọi khác: Chủng Chá, Trọng Gia...
Nhóm địa phương: Bố Y và Tu Dí.
Dân số: 2.273 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Nhóm Bố Y nói ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai), còn nhóm Tu Dí nói ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán - Tạng).
Lịch sử: Người Bố Y di cư từ Trung Quốc sang cách đây khoảng 150 năm.
Hoạt động sản xuất: Người Bố Y vốn giỏi làm ruộng nước nhưng đến Việt Nam cư trú ở vùng cao nên chủ yếu phải dựa vào canh tác nương rẫy và lấy ngô làm cây trồng chính. Bên cạnh đó mỗi gia đình thường có một mảnh vườn để trồng rau. Ngoài nuôi gia súc, gia cầm họ còn nuôi cá ruộng và biết làm nhiều nghề thủ công như dệt, rèn, gốm, đục đá, chạm bạc, đan lát, làm đồ gỗ...
Ăn: Người Bố Y ăn ngô xay nhỏ đem luộc cho chín dở rồi mới đồ lên gọi là mèn mén.
Mặc: Trước đây, phụ nữ mặc váy xoè như váy của phụ nữ Mông, váy được tạo hoa văn bằng cách bôi sáp ong lên mặt vải rồi đem nhuộm chàm. Áo ngắn 5 thân có ống tay rời, xiêm che ngực và bụng. Phụ nữ đeo trang sức bằng bạc gồm dây chuyền, vòng tay, khuyên tai; tóc được búi ngược lên đỉnh đầu, đội khăn chàm có thêu hoa văn bằng chỉ màu. Ngày nay, họ mặc giống như người Nùng trong cùng địa phương. Phụ nữ nhóm Tu Dí ăn mặc theo kiểu người Hán nhưng áo có ống tay rời.
Ở: Người Bố Y cư trú ở Quản Bạ (Hà Giang) và Mường Khương (Lào Cai). Họ ở nhà đất có 2 mái lợp gianh, gỗ hoặc ngói, tường đất trình. Nhà có 3 gian, có sàn gác trên quá giang là chỗ để lương thực và là chỗ ngủ của những người con trai chưa vợ.
Quan hệ xã hội: Có sự phân hoá giai cấp rõ rệt. Tầng lớp trên gồm trưởng bản (pin thàu) và người giúp việc (xéo phải).
Cưới xin: Gồm 3 bước:
Bước 1: Nhà trai cử 2 bà mối sang nhà gái xin lá số cô gái về để so tuổi. Nhà gái thường tỏ thiện chí bằng cách tặng nhà trai 10 quả trứng gà nhuộm đỏ. Nếu thấy "hợp tuổi", nhà trai cử 2 ông mối sang trả lá số và xin "giá ăn hỏi".
Bước 2: Lễ ăn hỏi. Sau lễ này, hôn nhân của đôi trai gái coi như được định đoạt.
Bước 3: Lễ cưới. Nhà trai đưa sính lễ cho nhà gái. Ngoài một số thực phẩm còn có 1 bộ trang phục nữ. Chàng rể không đi đón dâu. Khi về nhà chồng, cô dâu cưỡi ngựa do em gái chồng dắt và mang theo một cái kéo, 1 con gà mái nhỏ để đến giữa đường thì thả vào rừng.
Sinh đẻ: Xưa kia, người phụ nữ có tục đẻ ngồi, cắt rốn cho trẻ bằng mảnh nứa, nhau (rau) chôn ngay dưới gầm giường. Khi đứa trẻ được 3 ngày làm lễ cúng mụ, đặt tên tục, đến khi được 2- 3 tuổi mới đặt tên chính thức. Nếu đứa trẻ hay ốm đau thì phải tìm bố nuôi cho vía của nó có chỗ nương tựa.
Ma chay: Ma chay là thể hiện tình cảm của người sống với người chết và đưa hồn người chết về quê cũ. Trước khi đưa đám bắn 4 phát súng, lúc khiêng quan tài cho chân người chết đi trước. Từ nhà đến huyệt phải nghỉ 3 lần (nếu vợ hoặc chồng còn sống) hoặc 4 lần (nếu vợ hoặc chồng đã chết). Người nhà để tang 3 năm, trong thời gian có tang con trai không được uống rượu, con gái không được đeo đồ trang sức, con cái không được lấy vợ, lấy chồng.
Thờ cúng: Trên bàn thờ đặt 3 bát hương thờ trời, táo quân và tổ tiên. Dưới gầm bàn thờ đặt một bát hương thờ thổ địa. Nếu bố mẹ vợ chết không có người thờ cúng thì con rể lập bàn thờ nhỏ cạnh cửa để thờ.
Lễ tết: Có nhiều Tết: Nguyên đán, Rằm tháng giêng, 30 tháng giêng, Hàn thực, Ðoan ngọ, Mùng 6 tháng 6, Rằm tháng 7, Cơm mới. Tết Cơm mới tổ chức vào tháng 8 hay tháng 9 âm lịch, có bánh chưng, bánh chay và xôi nhuộm màu.
Lịch: Người Bố Y tính ngày, tháng theo âm lịch.
Học: Trước đây có một số người dùng chữ Hán để ghi gia phả, viết bài cúng, làm lá số...
Văn nghệ: Ở nhóm Tu Dí thường hát đối đáp tại phiên chợ xuân hay tại nhà, lời ca bằng tiếng Hán, được phụ hoạ bằng kèn lá.
Chơi: Trong dịp hội hè, người Bố Y có các trò chơi đánh đu, cờ tướng, đánh quay, đánh khăng.
Theo cema.gov.vn