Sìn Hồ là huyện vùng cao biên giới của tỉnh Lai Châu có 14 dân tộc cùng sinh sống với nhiều bản sắc văn hóa độc đáo, đặc biệt là văn hóa dân tộc Dao. Trước sự phát triển không ngừng của xã hội, nhiều bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc dần bị mai một và hòa tan với các nền văn hóa khác. Thế nhưng đồng bào dân tộc Dao Sìn Hồ vẫn gìn giữ, bảo tồn được nhiều nét văn hóa đặc trưng nhờ những nghệ nhân.
Người Dao trên cao nguyên Sìn Hồ có lịch sử, văn hóa tín ngưỡng vô cùng đặc sắc, phong phú được lưu truyền từ trăm năm trước. Kho tàng kiến thức đồ sộ ấy được cất giữ qua tư liệu lịch sử, chữ viết, ca dao...đặc biệt là các lễ hội luôn được duy trì trong cộng đồng và được tổ chức hàng năm.
Dành hơn 20 năm nghiên cứu, sưu tầm, gìn giữ và trao truyền những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Dao tới thế hệ trẻ, ông Tẩn Kim Phu (sinh năm 1939, xã Tả Phìn huyện Sìn Hồ) vẫn nỗ lực từng ngày để truyền dạy, quảng bá nét độc đáo của văn hóa dân tộc Dao tới cộng đồng. Ông là người đang nắm giữ di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Dao ở Sìn Hồ, cụ thể là tiếng nói, chữ viết; đồng thời là Nghệ nhân Ưu tú cuối cùng còn đọc, hiểu được sách cổ của người Dao.
Dù sức khỏe đã yếu, mắt đã mờ dần theo thời gian nhưng mỗi ngày ông Tẩn Kim Phu vẫn dành nhiều thời gian để nghiên cứu, sưu tầm và truyền dạy về văn hóa của đồng bào Dao cho thế hệ trẻ. Để lưu giữ văn hóa người Dao, ông Phu đã viết những bản thảo bằng chữ Nôm Dao về tất cả những phong tục tập quán, văn hóa của đồng bào Dao xưa trong các cuốn sổ tay. Với ông Phu cuốn sổ tay là “báu vật” của cá nhân ông nói riêng và của người Dao Sìn Hồ nói chung.
Theo già làng trong thị trấn Sìn Hồ, thuở nhỏ, ông Tẩn Kim Phu đã rất hiếu học, đặc biệt là rất say mê những bài hát của đồng bào dân tộc Dao. Để biết được những bài hát cổ, bắt buộc phải thuộc chữ Dao, vì vậy, ông Phu quyết tâm học bằng được chữ Dao cổ. Nhiều lần được chứng kiến lễ cấp sắc, rước râu, lễ cúng thanh minh của đồng bào, ông Tẩn Kim Phu nhận ra rằng người dạy mình biết chữ, biết văn hóa Dao chỉ có các thầy tào, thầy mo vì không ai am hiểu văn hóa địa phương và thạo chữ Dao cổ bằng họ.
Ông Tẩn Kim Phu biết chữ phổ thông qua lớp “bình dân học vụ”. Sau 3 tháng học miệt mài, ông đã biết đọc, biết viết. Sau này thoát ly gia đình, ông vừa học, vừa làm và đã hoàn thành chương trình bậc Phổ thông Trung học và Đại học Bách khoa Hà Nội.
Tham gia cách mạng, ông là người lính Phòng không - Không quân, sau năm 1975 đất nước thống nhất, ông xuất ngũ trở về quê hương. Vốn là người am hiểu kỹ thuật vô tuyến, văn hóa... ông được lãnh đạo huyện Sìn Hồ giao nhiệm vụ hàng ngày mở đài phát thanh cho nhân dân nghe. Đến năm 2001, khi nghỉ hưu, ông Tẩn Kim Phu mới có thời gian để nghiên cứu sâu về văn hóa dân tộc Dao. Với tình yêu và vốn kiến thức sâu về văn hóa người Dao, ông Phu được Ban Giám đốc Đài Phát thanh và Truyền hình Lai Châu mời làm cố vấn xây dựng chương trình phát thanh tiếng Dao. Năm 2006, ông được mời làm kiểm thính chương trình phát thanh tiếng Dao của Đài Tiếng nói Việt Nam.
Việc nghiên cứu sưu tầm văn hóa của đồng bào người Dao Sìn Hồ ông Phu gặp không ít khó khăn, bởi chữ Dao cổ biến âm từ Hán tự cổ. Đầu tiên phải học thuộc chữ Hán cổ (theo âm Hán) rồi mới biến âm thành tiếng Dao. Sau đó khi phát âm tiếng Dao thì dùng chữ Hán cổ lại biến thành bốn thứ tiếng Dao khác nhau như tiếng Dao thường ngày trong giao tiếp, tiếng Dao trong diễn xướng ca hát, tiếng Dao trong lễ cúng thông thường và tiếng Dao trong lễ cúng thần linh.
Theo ông Phu, dân tộc Dao trong cả nước có đến 24 ngành. Các ngành Dao phần lớn có văn hóa tương đồng nhưng có những từ ngữ khác nhau. Do việc sử dụng chữ Dao phức tạp mà những người biết chữ chưa chắc đã hiểu rõ nghĩa chữ Dao cổ, bởi vậy đối tượng am hiểu chữ Dao cổ rất hiếm. Trước thực trạng chữ Dao cổ đang dần bị mai một, để có thể tìm lại được những văn tự cổ, hay những cuốn chuyện thơ, những bài hát, bài cúng trong dân gian, ông Phu không quản ngại khó khăn tìm đến những bản làng xa xôi, đến từng hộ người Dao để sưu tầm, ghi chép lại.
Chính trong những chuyến đi tìm kiếm giá trị văn hóa Dao cổ đang lưu truyền trong dân gian đã mở ra trước mắt ông cả một kho tàng văn hóa. Ông cố gắng tận dụng thời gian quý báu khi tiếp xúc với các thầy mo, thầy tào để lược ghi cơ bản nhất những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Dao. Nhiều câu chuyện về cuộc sống cũng như sinh hoạt, phong tục, tập quán của người Dao được ông viết thành song ngữ để bà con dễ hiểu. Sau mỗi chuyến đi trở về, thành quả của ông là những cuốn sách quý về văn hoá người Dao Sìn Hồ cứ xếp dày lên theo thời gian.
Năm 2004, ông Tẩn Kim Phu cho ra đời 2 tập sách “Chuyện cổ người Dao” kể về sự ra đời, nguồn gốc của loài người, đặc biệt sự ra đời của người Dao. Tiếp đến là những cuốn sách về văn hóa Dao như: “Chuyện thơ người Dao Khâu, tập 1, tập 2; Nghi lễ trong việc cưới, việc tang của người Dao Khâu; Những lời răn dạy đạo đức...”.
Đến nay, ông Tẩn Kim Phu đã có gần mười đầu sách, thơ, phong tục văn hóa bằng tiếng Dao được xuất bản. Điển hình như cuốn “Truyện thơ người Dao Khâu ở Sìn Hồ - Lai Châu” xuất bản năm 2015. Với những cống hiến trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc Dao, năm 2015 ông Tẩn Kim Phu vinh dự được Chủ tịch nước tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú vì đã có những cống hiến trong việc gìn giữ, phát huy văn hóa dân tộc và nhận được nhiều Bằng khen của UBND tỉnh Lai Châu.
Giờ đây, ở cái tuổi “xưa nay hiếm”, nhưng mỗi lần có lễ hội hay có người đến tìm làm “cố vấn” về văn hóa, phong tục, tập quán của người Dao, ông Tẩn Kim Phu vẫn nhiệt tình hướng dẫn. Nhưng trăn trở lớn nhất của ông Phu là cuộc sống hiện đại, nhiều giá trị văn hóa Dao cổ đã bị mai một, cách tân. Nếu không biết bảo tồn, phát triển, thì văn hóa, bản sắc dân tộc sẽ mất. Khi nào còn sức, ông Phu vẫn cố gắng lưu giữ, sưu tầm và truyền dạy văn hóa Dao cho thế hệ trẻ. Con em người Dao mà không biết văn hóa truyền thống, thì như cây bị ruỗng mục từ gốc.
Đánh giá về những công lao đóng góp của ông Tẩn Kim Phu trong việc bảo tồn văn hóa Dao, Phó Chủ tịch UBND huyện Sìn Hồ Lý Thị Na khẳng định, những năm qua huyện luôn quan tâm tới công tác bảo tồn văn hóa các dân tộc trên địa bàn. Đối với văn hóa dân tộc Dao, huyện rất may mắn vì có một Nghệ nhân Ưu tú Tẩn Kim Phu luôn nỗ lực gìn giữ văn hóa Dao. Ông Phu là người truyền cảm hứng cho người dân trên địa bàn cùng nhau đoàn kết, khôi phục lại tiếng nói, chữ viết riêng của người Dao Sìn Hồ. Đối với các hoạt động trong đời sống, tín ngưỡng như lễ hội, văn hóa văn nghệ… huyện luôn mời ông làm cố vấn để phục dựng lại những nét văn hóa đặc trưng của người Dao. Đến nay, các hoạt động văn hóa của người Dao được huyện duy trì và thường xuyên tổ chức trong các sự kiện của huyện và tỉnh Lai Châu.
Đinh Thùy
Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).
Tên gọi khác: Mán.
Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).
Dân số: 751.067 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.
Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.
Hoạt động sản xuất: Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.
Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.
Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...
Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.
Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.
Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay.
Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.
Mặc: Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.
Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục theo rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.
Ở: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.
Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.
Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.
Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.
Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.
Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.
Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.
Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.
Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được.
Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa.
Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.
Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.
Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo.
Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.
Theo cema.gov.vn