Nét đẹp văn hóa truyền thống trong tục cưới hỏi của người Thái đen ở Sơn La

Nét đẹp văn hóa truyền thống trong tục cưới hỏi của người Thái đen ở Sơn La

“Trai khôn dựng vợ, gái lớn gả chồng” là phong tục bao đời nay nhưng mỗi dân tộc lại có truyền thống khác nhau. Dân tộc Thái vùng Tây Bắc nói chung và Thái đen ở Sơn La nói riêng có tục cưới hỏi rất đặc sắc, là nét văn hóa truyền thống được gìn giữ, bảo tồn.

Nét đẹp văn hóa truyền thống trong tục cưới hỏi của người Thái đen ở Sơn La ảnh 1Theo phong tục người Thái đen, cô dâu làm lễ búi tóc “Tằng cẩu”. Nguồn: baomoi.com

Con trai, con gái dân tộc Thái đen ở Sơn La khi trưởng thành, muốn lấy vợ, lấy chồng đều được tự do tìm hiểu, ít có sự sắp đặt của cha mẹ. Đồng bào dân tộc Thái đen ở Sơn La quan niệm, con trai muốn lấy vợ phải chăm chỉ lao động, đặc biệt là biết đan lát; con gái phải biết thêu khăn piêu, dệt vải. Khi đôi nam nữ đã thương nhau, muốn nên vợ chồng, nhà trai cho bà mối cùng những người trong họ hàng mang lễ vật sang nhà gái dạm hỏi.

Bà Lò Thị Tâm, dân tộc Thái đen ở phường Chiềng An, thành phố Sơn La, chia sẻ: Theo phong tục truyền thống, trong lễ cưới hỏi của người Thái đen, gia đình nhà trai sẽ phải chuẩn bị đầy đủ các lễ vật để sang dạm hỏi và làm thủ tục xin cưới bên nhà gái. Lễ để cúng xin tổ tiên bên nhà gái gồm có 2 con gà, xôi nếp và 2 chai rượu. Những đồ lễ vật thường được dùng lá dong gói vào mỗi thứ 12 gói nhỏ gồm có gà, cá, cơm xôi, muối, gừng, trầu cau, thuốc lào. Ngoài ra, nhà trai còn chuẩn bị một bộ váy áo cóm, khăn piêu, đồ làm lễ "tẳng cẩu" (búi tóc trên đỉnh đầu) cho cô dâu mới như trâm cài tóc bằng bạc, 1 đôi tóc độn, 1 đôi vòng, 4 sải vải khít... và 1 đôi vòng bạc tặng mẹ vợ để đền đáp công sinh thành, dưỡng dục. Bên cạnh đó, còn có chăn, đệm dệt thổ cẩm đặc trưng của người dân tộc Thái.

Thực hiện nếp sống văn hóa mới, ngày nay, việc cưới hỏi của người Thái đen ở Sơn La đã giảm bớt nhiều thủ tục rườm rà, tốn kém như không thách cưới, không bắt buộc ở rể... Các nghi lễ trong cưới hỏi cũng được các gia đình rút gọn nhưng vẫn giữ được bản sắc truyền thống của dân tộc Thái đen như chuẩn bị sính lễ hỏi cưới, lễ "tẳng cẩu", xin dâu… Chị Lò Thu Hương, dân tộc Thái đen ở bản Hìn, phường Chiềng An là cô dâu mới bộc bạch, từ xưa chị đã được chứng kiến nhiều đám cưới trong bản. Gia đình chị là người dân tộc Thái đen nên chị cũng được các ông, bà truyền dạy về các thủ tục truyền thống của dân tộc mình. Trong đó, lễ cưới truyền thống của người Thái đen có nhiều thủ tục vẫn được lưu giữ qua các đời như lễ "tẳng cẩu", mặc áo cóm cho con dâu trước khi về nhà chồng... "Tôi rất tự hào vì lễ cưới của mình được tổ chức theo phong tục truyền thống. Tôi hy vọng rằng lễ cưới của người Thái đen luôn giữ được những phong tục tốt đẹp đó”, chị Lò Thu Hương tâm sự.

Anh Lường Văn Lâm, chồng của chị Lò Thu Hương cho hay, là thế hệ trẻ sống ở thành phố, nhưng gia đình là người Thái đen nên anh và vợ đã tổ chức lễ cưới theo đúng phong tục truyền thống để góp phần gìn giữ những giá trị tốt đẹp của dân tộc.

Người dân tộc Thái đen ở Sơn La cho rằng, con gái sinh ra được cha mẹ nuôi nấng, lớn khôn đi lấy chồng thành người của nhà chồng. Do đó, chàng rể phải có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với gia đình vợ để đền đáp công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Khi ăn cơm, bố vợ ngồi mâm trên và được đặt trước mặt 2 chén rượu ngon.

Bên cạnh đó, có một nghi lễ đặc trưng trong ngày cô dâu về nhà chồng đó là tục “tẳng cẩu” (búi tóc trên đỉnh đầu) - một dấu hiệu cho mọi người biết người con gái đó đã lập gia đình. Để tiến hành tục lệ này, sau khi nhà trai chọn được ngày lành tháng tốt sẽ cử hai người phụ nữ đại diện đến làm lễ “tẳng cẩu” cho cô dâu. Họ là những người có cuộc sống gia đình êm ấm, hạnh phúc, khéo ăn nói, hiểu biết về phong tục tập quán và họ cũng chính là người trực tiếp trải chuốt, “tẳng cẩu” cho cô dâu; đồng thời dặn dò cô dâu những điều hay lẽ phải trước khi về nhà chồng. Một trong những đồ lễ không thể thiếu trong nghi thức “tẳng cẩu” được bên nhà trai chuẩn bị là các cặp búi tóc độn. Mái tóc càng dày, càng mượt sẽ càng dễ búi, dễ quấn và có một “tẳng cẩu” đẹp trong mắt mọi người. Khi đã "tẳng cẩu" lên rồi thì người phụ nữ không được tự tiện "bỏ cẩu" xuống (buông tóc). Chỉ khi nào người chồng qua đời, người vợ mới "bỏ cẩu". Cuộc sống hiện đại ngày nay cũng có phụ nữ Thái đen khi lấy chồng không "tẳng cẩu" do thỏa thuận của vợ chồng hoặc đặc thù ngành nghề công tác, nhưng phải được sự đồng ý của bố mẹ hai bên gia đình.

Nghệ nhân ưu tú Lò Văn Lả, thành phố Sơn La, cho biết tục cưới hỏi của người Thái đen ở Sơn La đã thay đổi nhiều và có sự giao thoa giữa các dân tộc, nhưng những nghi lễ truyền thống tốt đẹp vẫn được giữ gìn. Trong đó, lễ "tẳng cẩu" cho cô dâu về nhà chồng là tục lệ của người Thái không bỏ được. Hiện nay, người con gái sống ở thành thị có "tẳng cẩu" hay không cũng được, còn ở bản dứt khoát phải "tẳng cẩu" nếu không sẽ bị chê bai.

Nguyễn Cường – Duy Đông

(TTXVN)
Dân tộc Thái Dân tộc Thái

Tên tự gọi: Tay hoặc Thay

Tên gọi khác: Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tày Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ.

Nhóm địa phương: Ngành Ðen (Tay Ðăm), Ngành trắng (Tay Ðón hoặc Khao).

Dân số: 1.550.423 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).

Lịch sử: Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.

Hoạt động sản xuất: Người Thái sớm đi vào nghề trồng lúa nước trong hệ thống thuỷ lợi thích hợp được đúc kế như một thành ngữ - "mương, phai, lái, lịn" (khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật chướng ngại, đặt máng) trên các cánh đồng thung lũng. Họ làm ruộng cấy một vụ lúa nếp, nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm và đặc biệt bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải.

Cót xát rất phổ biến ở vùng người Thái, dùng để trải trên sàn trước khi xếp chiếu phục tay và các tấm đệm ngủ lên trên. Cót được đan bằng cây mạy loi, một loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao.

Ăn: Ngày nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính, gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chõ, đặt lên bếp, đồ thành xôi. Trên mâm ăn không thể thiếu được món ớt giã hoà muối, tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành... có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng... gọi chung là chéo. Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại thì buộc phải có nước nhúng lấy từ lòng non (nặm pịa). Thịt cá ăn tươi thì làm món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm; ăn chín, thích hợp nhất phải kể đến các món chế biến từ cách nướng, lùi, đồ, sấy, sau đó mới đến canh, xào, rang, luộc...

Họ ưa thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, bùi, ít dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng... hay uống rượu cần, cất rượu. Người Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và chạm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ. Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.

Mặc: Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn, đủ màu sắc, đính khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu... chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống; thắt eo bằng dải lụa màu xanh lá cây; đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Ngày lễ có thể vận thêm áo dài đen, xẻ nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết eo, vai phồng, đính vải trang trí ở nách, và đối vai ở phía trước như của Thái Trắng. Nữ Thái Ðen đội khăn piêu nổi tiếng trong các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ. Nam người Thái mặc quần cắt để thắt lưng; áo cánh xẻ ngực có túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái; cài khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến là đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong có một lần áo trắng, tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo kiểu mỏ rìu. Khi vào lễ cuốn dải khăn dài một sải tay.

: Ở nhà sàn, dáng vẻ khác nhau: nhà mái tròn khum hình mai rùa, hai đầu mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút; nhà 4 mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can; nhà sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh; nhà mái thấp, hẹp lòng, gần giống nhà người Mường.

Phương tiện vận chuyển: Gánh là phổ biến, ngoài ra gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ nay. ở dọc các con sông lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.

Quan hệ xã hội: Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường hay theo chế độ phìa tạo Tông tộc Thái gọi là Ðằm. Mỗi người có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu: Ải Noong (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể). (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể).

Cưới xin: Trước kia người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có 2 bước cơ bản:

Cưới lên (đong khửn) - đưa rể đến cư trú nhà vợ - là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể. Người Thái Ðen có tục búi tóc ngược lên đỉnh đầu cho người vợ ngay sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12 năm.

Cưới xuống (đong lông) đưa gia đình trở về với họ cha.

Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ theo tư thế ngồi, nhau bỏ vào ống tre đem treo trên cành cây ở rừng. Sản phụ được sưởi lửa, ăn cơm lam và kiêng khem một tháng; ống lam bó đem treo trên cành cây. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lung Ta đến đặt tên chi cháu.

Ma chay: Lễ tang có 2 bước cơ bản:

Pông: Phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng), thiếu (Thái Ðen).

Xống: gọi ma trở về ngụ ở gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.

Nhà mới: Dẫn chủ nhân lên nhận nhà Lung Ta châm lửa đốt củi ở bếp mới. Người ta thực hiện tại nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi điều ác thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi.

Lễ tết: Cúng tổ tiên ở người Thái Ðen vào tháng 7, 8 âm lịch. Người Thái Trắng ăn tết theo âm lịch. Bản Mường có cúng thần đất, núi, nước và linh hồn người làm trụ cột.

Lịch: Theo hệ can chi như âm lịch. Lịch của người Thái Ðen chênh với âm lịch 6 tháng.

Học: Người Thái có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu. Người Thái có nhiều tác phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học.

Văn nghệ: Người Thái có các điệu xoè, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên phong phú.

Chơi: Trò chơi của người Thái phổ biến là ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa xoè, chơi quay và quả mák lẹ. Nhiều trò chơi cho trẻ em.

Mỗi nhà người Thái thường có hai bếp, một bếp để tiếp khách, sưởi ấm, một bếp khác để nấu cơm. Chõ xôi (ninh đồng, chõ gỗ) được đặt trên 3 ông đầu rau bằng đá. Phía trên bếp có giàn để các thức cần sấy khô. Người Thái thường dùng ghế mây tròn để ngồi quanh bếp.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm