Mâm lễ tiễn các thần linh về trời trong Lễ hội Pang A |
Sơn La có 12 dân tộc anh em cùng chung sống, mỗi dân tộc có phong tục tập quán và bản sắc văn hóa riêng. Dân tộc La Ha hiện còn dưới 10.000 người, là một trong số 16 dân tộc thiểu số trong toàn quốc cần được bảo tồn văn hóa truyền thống khẩn cấp. Tại Sơn La, người La Ha chỉ chiếm 0,87% dân số toàn tỉnh, tuy ít, nhưng người La Ha vẫn giữ phong tục, tập quán và bản sắc văn hóa riêng.
Để chuẩn bị tổ chức Lễ hội, những người trong gia đình chuẩn bị lương thực, thực phẩm cho lễ hội và báo các con nuôi, họ hàng ở xa và bà con dân bản đến dự lễ hội. Trong lễ cúng không thể thiếu cây Xặng Bók được làm từ một cây tre và 1 cây mía buộc vào nhau dựng đứng từ sàn lên đến nóc nhà, trên đó trang trí nhiều vật dụng liên quan đến đời sống sinh hoạt hàng ngày như: Sợi sùng, sợi mon, cống mạy, con ve, quả còn, chim cu gáy, hoa chuối... các đồ trang trí này cũng là đạo cụ của phần hội.
Đến ngày làm lễ, gia đình thầy mo dựng cây Xặng Bók ở gian giữa nhà, lễ vật và những chum rượu cần các con nuôi mang đến đặt xung quanh cây Xặng Bók. Gia đình thầy mo sẽ mổ một con lợn, nướng cá, chuẩn bị rau, xôi để làm lễ cúng và làm thức ăn mời con nuôi và những người trong bản đến tham dự. Ngoài ra, lễ vật không thể thiếu đó là 3 chum rượu cần. Trước tiên, thầy mo sẽ cúng ở mâm cạnh cửa sổ để báo cáo với tổ tiên là hôm nay gia đình tổ chức Lễ Pang A, mong tổ tiên cho phép, phù hộ và mời về dự Lễ Pang A. Sau đó thầy cúng sẽ quay sang cúng lễ tại mâm cúng chính cạnh cây Xặng Bók, người nhà sẽ mở các chum rượu cần, cắm cần vào để thầy cúng mời các thần linh về dự lễ, phù hộ cho gia chủ, các con nuôi, dân bản khỏe mạnh.
Trong khi các thầy mo cúng thì người nhà bày mâm cỗ, những người tham gia và các con nuôi vừa ăn, vừa thi uống rượu cần, tạo nên không khí vui vẻ, náo nhiệt của lễ hội. Lễ cúng bắt đầu từ khoảng 9 giờ sáng đến 2 giờ chiều, thì mọi người vào màn múa tăng bu. Người nhà đặt 1 tấm ván lên sàn nhà, chốt chặt lại, treo trống, chiêng lên xà nhà. Khi tiếng trống chiêng nổi lên, mỗi người cầm một đoạn tre bắt đầu múa tăng bu vòng quanh tấm ván gỗ, họ bước theo nhịp trống, chiêng và nhịp dỗ của ống tre. Đi được khoảng 3-4 vòng họ lại cùng nhau hú lên rồi quay trở lại, cứ như vậy, màn múa kéo dài khoảng 1 giờ. Buổi chiều thầy cúng tiếp tục cúng cho các con nuôi ở xa đến và uống rượu cần.
Lễ Pang A kết thúc bằng việc người nhà kiểm tra xem tất cả các chum rượu cần đã uống nhạt chưa, nếu uống nhạt rồi thì rút tất cả cần rượu ra đan với nhau thành 1 tấm, bên trên đặt 1 mâm lễ nhỏ được lấy từ mỗi phần lễ một ít đặt lên, tất cả con nuôi và thầy cúng, mỗi người cầm 1 đầu cần rượu để dâng mâm lễ tiễn đưa thần linh về trời, nghi lễ diễn ra trong khoảng 20 phút, sau đó thầy mo lại quay ra cúng cảm ơn tổ tiên, các con nuôi rút khăn trên vách xuống thực hiện điệu múa khăn để tiễn đưa thần linh về trời.
Lễ hội Pang A đã có phần lễ và phần hội đan xen. Phần lễ tôn nghiêm, giàu bản sắc. Phần hội sôi động, sáng tạo, các điệu múa gần gũi với cuộc sống hàng ngày, phản ánh các hoạt động trong lao động sản xuất, ẩn chứa ước nguyện của tộc người được phù hộ, cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, bản làng ít xảy ra tai ương dịch họa, dòng tộc phát triển hạnh phúc... Trên hết, lễ hội nhắc nhở con cháu ghi nhớ công ơn thầy thuốc có công cứu chữa cho mình được khỏi bệnh, nhắc nhở con cháu nhớ về nguồn cội và truyền lại cho các thế hệ kế tiếp những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc, cần được giữ gìn, phát huy và lưu truyền cho đời sau.
Tên tự gọi: La Ha, Klá, Phlạo.
Tên gọi khác: Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ Hà, Pụa.
Nhóm địa phương: La Ha cạn (Khlá Phlao), La Ha nước (La Ha củng).
Dân số: 8.177 (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Lịch sử: Người La Ha có mặt sớm ở miền Tây Bắc nước ta. Theo những tài liệu chữ Thái cổ thì vào thế kỷ XI, XII khi người Thái Ðen thiên di tới vùng đất này, họ đã gặp tổ tiên của người La Ha hiện nay. Chính vì vậy, khi làm lễ cúng Mường, người Thái vẫn còn tục đặt cỗ "trâu trắng" để tế thần Ăm Poi - một thủ lĩnh nổi tiếng của người La Ha vào đầu thế kỷ XI.
Hoạt động sản xuất: Người La Ha bắt đầu làm ruộng nước nhưng loại hình kinh tế chính vẫn là nương rẫy du canh du cư và săn bắt, hái lượm. Phương thức canh tác đơn giản, dùng gậy chọc lỗ và dao phát nương. Cây trồng chủ yếu là lúa nếp, ngô, đậu tương, bông. Phụ nữ La Ha không biết dệt vải, do đó họ phải đem bông đổi vải của người Thái để may mặc.
Ăn: Lương thực chính là gạo nếp chế biến theo cách đồ thành xôi, nay chuyển sang ăn cơm tẻ. Thực phẩm thường được ướp chua, nướng, lùi hoặc sấy khô để dành. Phụ nữ ăn trầu.
Mặc: Trước kia đàn ông búi tóc sau gáy nhưng đến nay chỉ còn vài cụ già và thầy cúng giữ tục này. Ðàn bà nhuộm răng đen, mặc giống người Thái Ðen. Một số nơi còn đeo thêm tạp dề ở phần váy trước hoặc khoác trên lưng khi rét. Phụ nữ chưa chồng búi tóc sau gáy, có chồng búi tóc trên đỉnh đầu giống người Thái Ðen. Có nơi từ em bé gái đến bà cụ già chỉ có một cách búi duy nhất là trên đỉnh đầu hoặc do ảnh hưởng của người Thái Trắng chỉ vấn tóc trần hoặc búi tóc sau gáy không phân biệt có chồng hay chưa.
Ở: Nhà sàn cấu trúc theo 2 kiểu:
Kiểu ở tạm từ 1 đến 3 năm của những nhóm sống du canh du cư. Loại nhà này hai đầu hồi mái nhà lượn tròn theo bầu dục, dài ra hai bên như hình hàm lợn...
Kiểu nhà ở lâu năm của những nhóm cư dân sống bán định cư, bán định canh hoặc định canh định cư. Loại nhà này hai đầu hồi mái tròn khum hình mai rùa giống kiểu nhà người Thái Ðen.
Bố cục trong nhà chia làm hai phần, phần để tiếp khách rộng từ 1/2 đến 2/3 diện tích nhà. Ngăn giữa phần chủ và khách là một cột buộc hũ rượu cần bên cạnh.
Phương tiện vận chuyển: Gùi, trâu kéo, ngựa thồ.
Quan hệ xã hội: Người La Ha sống theo làng bản là Khun cai, hai người giúp việc Khun cai là Khun tang, Khun téng do dân cử ra.
Gia đình người La Ha là gia đình nhỏ, phụ hệ. Không chỉ con cái mang họ bố mà vợ cũng phải mang họ chồng. Con gái không được thừa kế tài sản.
Cưới xin: Hôn nhân một vợ một chồng đã mang tính chất mua bán thể hiện ở khoản tiền cưới gọi là nang khả pom (giá đầu người) để trả ơn bố mẹ vợ và tục ở rể. Tuy nhiên trai gái được tự do tìm hiểu, không có sự ép buộc của cha mẹ. Sau thời gian tìm hiểu từ 3 đến 10 ngày người con trai nói với bố mẹ cử người đi dạm. Nhà gái nhận trâu và đưa áo của cô gái cho bên nhà trai xem bói. Nhà gái chia trầu cho họ hàng để hỏi ý kiến. Ai không đồng ý thì trả lại trầu. Trong 5 ngày nếu nhà gái không trả lại trầu cho nhà trai có nghĩa là nhà gái đồng ý và 10 ngày sau người con trai đến nhà gái bắt đầu ở rể làm công cho bố mẹ vợ. Thời gian ở rể là từ 4 đến 8 năm. Hết hạn ở rể mới bắt đầu tổ chức lễ cưới chính thức thu mà phu (làm cơm rượu). Sau lễ cưới này, cô dâu được đón về nhà chồng, đổi họ theo họ chồng và không được quay về ở với bố mẹ đẻ nữa, dù chồng chết.
Trường hợp người đàn bà goá đi bước nữa, người chồng thứ hai mang lễ cưới nhỏ thu cơi poọng (làm gà báo cưới) đến gia đình người chồng thứ nhất chứ không cần có quan hệ gì với bố mẹ của người đàn bà goá. Người đàn bà goá đi bước nữa vẫn quan niệm rằng khi chết đi, hồn lại tìm về với người chồng chính thức đã làm lễ thu mà phu. Vì vậy, ở một số nơi, bố mẹ đã chết cả mà chưa làm được lễ cưới thu mà phu thì con phải làm lễ cưới đó cho bố mẹ để bố mẹ được sống với nhau ở thế giới bên kia.
Thờ cúng: Người La Ha thờ tổ tiên trong gian nhà "hóng" như của người Thái.
- Thầy cúng một lao cúng gọi hồn và đuổi tà ma. Hàng năm hoặc 2-3 năm một lần một lao làm lễ cúng tổ tiên của mình của mình và các vị thần linh khác. Trong số các vị thần linh khác. Trong số các vị thần ấy "thần dương vật" (linga) và "thần cung kiếm" là đáng sợ hơn cả. Bởi vậy, bàn thờ của một lao bao giờ cũng có hình nộm dương vật, kiếm và cái mộc.
Kiêng đem rau xanh, lá xanh, vật màu xanh và thịt sống vào cửa bên ở gia đình, mà phải mang những thứ đó vào cửa của bên khách. Khi đặt nồi, chảo lên bếp phải đặt hai quai theo hướng nằm ngủ của người trong gia đình, kiêng không để quai nồi, chảo theo hướng của 2 cửa ra vào vì đó là hướng đặt người chết trước khi đem chôn. Khi có người chết, tất cả những điều kiêng kỵ trên đều huỷ bỏ và làm ngược lại.
Ma chay: Người La Ha không có tục đốt xác như người Thái Ðen mà đem chôn. Thi hài được liệm bằng vải hoặc bằng chiếu nan và khiêng ra đến mộ mới bỏ vào quan tài và hạ huyệt. Nếu người chết là bố, người con trai cầm dao phá nơi thờ cũ đuổi ma bậc ông đi để bắt đầu thờ ma bố. Nếu người chết là mẹ, con trai cầm dao đập vào phên chỗ mẹ ngủ, tượng trưng cho việc đuổi ma bậc bà đi để bắt đầu thờ ma mẹ. Người chết được đặt nằm dọc theo cây xà ngang, nếu người chết là bố thì đặt nằm dưới cây xà ngang thứ nhất, nếu là mẹ, đặt dưới cây xà ngang thứ hai, nếu người chết là con trai cả đặt nằm dưới cây xà ngang thứ ba...
Khi khiêng người chết đi chôn, người chết là bố thì khiêng ra cửa gian khách (quản), là mẹ phá vách trước khiêng ra, nếu là con khiêng ra cửa sàn. Trên huyệt người ta đã dựng sẵn một cái nhà nhỏ có 2 mái cao chừng 2m. Mái nhà mồ lợp bằng gianh dỡ một phần của mái nhà ở mang ra. Người chết là bố thì dỡ gianh ở phía đầu chỗ ngủ để lợp. Nếu người chết là mẹ thì dỡ gianh ở mái nhà phía chân chỗ ngủ, là con trai thì dỡ gianh mái hồi phía sàn phơi thóc, con gái thì dỡ gianh ở mái hồi phía sàn để nước. Trong nhà mồ đặt những thứ cần thiết cho một cuộc sống như: giỏ cơm, quần áo, chăn, đệm. Sau khi đưa đám trở về nhà, người ta thường khua cối giã gạo để xua ma không quấy phá gia đình.
Lịch: Theo lịch của người Thái.
Học: Người La Ha trước kia học chữ Thái.
Văn nghệ: Người La Ha hát, làm thơ bằng tiếng Thái khá thạo. Hai điệu múa đặc trưng là múa dương vật (linga) và múa cung kiếm.
Theo cema.gov.vn