Lễ cúng đầu năm của người Bahnar

Lễ cúng đầu năm của người Bahnar
Cúng xin sức khỏe

Làng Mơhra có 117 hộ với 457 khẩu, hầu hết là người Bahnar bản địa nơi đây. Tiếp chúng tôi trong những ngày giáp Tết Kỷ Hợi 2019, Già làng Hmunh (70 tuổi) hiện rõ niềm vui trên khuôn mặt. Ông cho biết, lễ cúng xin Yang cho người dân sức khỏe rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Bahnar. Lễ cúng được thực hiện vào đầu tháng 1 âm lịch hằng năm và bắt buộc phải có mặt tất cả mọi thành viên trong làng. Do đó, chủ lễ phải thông báo trước về thời gian tổ chức để bà con trong làng kịp chuẩn bị và dự lễ. Già làng sẽ là người đại diện cho buôn làng đến nhà rông làm lễ cúng xin Yang (giàng, trời, thần linh) ban cho người dân trong cộng đồng được mạnh khỏe, không bị bệnh tật quấy nhiễu để rắn rỏi đôi chân lên nương, lên rẫy. Đây là phong tục độc đáo của người Bahnar, cũng là dịp để những thành viên trong cộng đồng sum họp, thêm gắn kết nhau trong những ngày đầu Xuân.

Lễ vật cúng xin sức khỏe do tất cả người dân trong làng đóng góp. Điều đó thể hiện sự đoàn kết và trách nhiệm của từng thành viên cho lễ cúng. Lễ vật gồm 1 con heo cái được nấu thành 3 món, 1 con gà mái và 1 quả trứng gà. Cơm được nấu trong 3 nồi Gọ bảy (nồi đồng) có kích thước khác nhau. Gọ bảy nhỏ nhất được nấu đầu tiên và phải dùng gạo mới thu hoạch, nồi phải được rửa thật sạch và cơm này dành cho những người lớn tuổi trong làng ăn. Hai nồi còn lại dùng để nấu cơm cho cả làng.
 
Già làng Hmunh thực hiện lễ cúng xin mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Ảnh: Chí Hào
  Già làng Hmunh thực hiện lễ cúng xin mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Ảnh: Chí Hào

Khoảng 13 giờ, sau khi lễ vật đã được chuẩn bị đầy đủ, dân làng trải một chiếc chiếu mới mua trong nhà rông để thầy cúng vào làm lễ. Thầy cúng nhắc khi làm lễ xong mọi người ăn uống phải nói chuyện lịch sự, không được ca hát nhảy múa. Lễ vật được bày biện xong xuôi, chủ lễ ngồi xuống, chắp tay khấn xin Yang cho dân làng khoẻ mạnh, làm ăn phát đạt, đi đường gặp điều may mắn, có người tốt bụng giúp đỡ. Sau khi khấn xong, lễ vật đã cúng sẽ được phân phát cho các thành viên trong làng cùng ăn để nhận sự che chở của Yang. Các cụ già, thầy cúng sau khi đã ăn xong mà còn dư thì phải chia lại cho con cháu, không được mang về hay vứt bỏ.

“Lễ cúng là điểm tựa tinh thần cho người dân. Mình là người lính cụ Hồ, cháu bác Núp (Anh hùng Núp-P.V) nên không mê tín dị đoan, không cúng để chữa bệnh, người dân làng Mơhra hay nơi khác bị đau ốm mình đều nói phải đến bệnh viện. Các làng chỉ giữ lại những lễ cúng năm mới, cúng sức khỏe như một nét đẹp văn hóa”- già làng Hmunh nói.

Lễ cúng Kuai

Sau khi cúng xin sức khỏe cho dân làng vài ngày, thầy cúng sẽ chọn một ngày trời nắng đẹp để thực hiện Lễ cúng Kuai-xin mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu. Lễ cúng có 1 con heo, 1 con gà và 1 ghè rượu. Đặc biệt, lễ cúng này không được thiếu 1 cây le được chặt trong rừng. Cây le chuẩn bị cho lễ cúng phải cứng, cong đều nhưng không được quá già. Thầy cúng là người tự tay vót cây le và giữ lại 3 đốt có nhánh dài. Ngọn cây le được cột 3 chiếc vòng tròn làm bằng tre, tiếp theo cột sợi dây rừng dài chừng 1m, cuối sợi dây này cũng được cột 3 chiếc vòng bằng tre. Trước khi tiến hành cúng, thầy cúng sẽ đốt nhựa cây Gul có mùi rất thơm để “gọi” Yang về. Đây là loại nhựa cây này rất khó tìm và chỉ những người thạo đi rừng, nhiều khi phải đi rừng nhiều ngày mới may mắn tìm thấy.

Mọi thủ tục chuẩn bị hoàn tất, đầu tiên thầy cúng sẽ xoay ngọn cây le chỉ hướng cong về hướng mặt trời mọc khấn xin cho trời mưa thuận gió hoà, không có bão, đừng cho nắng nhiều. Thầy cúng đặt hai lòng bàn tay khép vào nhau vừa đưa lên xong hạ xuống khấn xin: “Hôm nay làng tôi có 1 con heo, 1 con gà, 1 ghè rượu cho Yang. Yang hãy giúp dân làng trồng cây lúa xuống có nhiều hạt, khoai sắn củ to. Xin Yang cho mưa thuận gió hòa, cây trái tốt tươi, mùa màng bội thu. Chúng tôi sẽ sống đoàn kết, hoà thuận và không lừa ai”.

Tiếp đó già làng Hmunh xoay ngọn cây le về hướng Nam, xin cho dân làng làm ăn may mắn; xoay về hướng Bắc xin cái bông làm khố, nhuộm vải đẹp; xoay về hướng Tây xin nước để cây không chết khô, người dân làm ăn trong thời tiết thuận lợi. Nghi lễ cúng được thực hiện xong, thầy cúng sẽ phân phát lễ vật cho tất cả người dân trong cộng đồng cùng ăn, uống rượu ghè và trò chuyện với nhau về những điều đã trải qua trong năm cũ; đồng thời, răn bảo nhau sống tốt, tôn trọng giúp đỡ nhau để đón một năm mới thuận lợi, thành công hơn năm cũ.
Theo baogialai.com.vn
Dân tộc Ba Na Dân tộc Ba Na

Tên tự gọi: Ba Na.

Tên gọi khác: Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông...

Nhóm địa phương: Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), Tơ Lô, Gơ Lar Krem.

Dân số: 227.716 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên đã kiến lập nên nền văn hoá độc đáo ở đây. Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội ở các cao nguyên miền Trung nước ta.

Hoạt động sản xuất: Người Ba Na canh tác lúa trên ruộng khô và rẫy. Cái cuốc là công cụ chủ yếu trong canh tác nông nghiệp ở tộc người này. Với ruộng khô thì việc thâm canh không bỏ hóa là đặc điểm khác với rẫy. Ruộng khô thường ở vùng ven sông suối. Từ đầu thế kỷ XX, việc làm ruộng nước bằng cày đã ngày càng phát triển ở nhiều nơi. Vườn chuyên canh và vườn đa canh cũng xuất hiện từ lâu. Công việc chăn nuôi và các nghề thủ công như: đan, dệt, gốm, rèn còn chưa phát triển.

: Ðịa bàn cư trú của người Ba Na trải rộng trên các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và miền Tây của Bình Ðịnh, Phú YênKhánh Hòa. Họ cư trú trên nhà sàn, cửa ra vào mở về phía mái, trên hai đầu đốc đều có trang trí hình sừng, ở giữa làng được xây cất một ngôi nhà công cộng - nhà làng, nhà rông với hai mái vồng và cao vút. Ðó là nhà khách của làng, nơi diễn ra mọi sinh hoạt chung của cộng đồng làng như giáo dục thanh thiếu niên, tổ chức nghi lễ, hội làng, xử án...

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng, cho nam, nữ và cho mọi lứa tuổi. Gùi nhiều kích cỡ to nhỏ và nhiều chủng loại, đan mau và thưa nhưng đều theo một mô típ cổ truyền.

Quan hệ xã hội: Làng là đơn vị xã hội hoàn chỉnh và duy nhất. Tàn dư mẫu hệ vẫn thể hiện rõ trong quan hệ gia đình, tộc họ và trong hôn nhân. Sự tan rã của chế độ mẫu hệ ở đây đã nâng cao địa vị của nam giới nhưng phía mẹ vẫn gần gũi hơn. Sau hôn nhân còn phổ biến tập quán cư trú phía nhà vợ. Xã hội có người giàu, người nghèo và tôi tớ.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm