Đối với cộng đồng người La Chí, tết tháng 7 (tết Khu Cù Tê) là dịp những người trong dòng họ có đều quay trở về cùng gia đình dòng tộc của mình, cùng ăn uống hàn huyên tâm sự, đây là liều thuốc tinh thần gắn kết cộng đồng với nhau, đồng thời cầu cho cuộc sống ấm no gia đình hạnh phúc chính vì vậy mà cộng đồng dân tộc La Chí trong truyền thống không thể bỏ được tết này.
Đồng bào La Chí chuẩn bị lễ vật dâng cúng. |
Tết Khu Cù Tê của người La Chí thường được tổ chức vào tháng 7 âm lịch khi việc cấy cày đã xong xuôi đây là thời gian thảnh thơi của người La Chí, nhưng việc tổ chức cũng phải tuân thủ những lề luật chung của cộng đồng. Đầu tiên là việc bầu ra người chủ trì lễ cúng của cộng đồng La Chí, người này được gọi là Mổ Cóc, người được đề cử phải là người đã lập gia đình và đã có con, gia đình hạnh phúc không vi phạm luật lệ của cộng đồng làng bản, có uy tín trong cộng đồng, trong nhà không có người ốm yếu, hội đồng các vị trưởng tộc sẽ lấy chân gà khô để xem. Nếu chân gà tốt thì người đó mới được làm còn không phải chọn người khác, những người phụ giúp cho Mổ Cóc gọi là So Vé.
Rượu và sừng trâu là những thứ không thể thiếu trong tết Khu Cù Tê của người La Chí. |
Theo phong tục truyền thống của người La Chí họ chỉ thờ cúng những người đã mất tính từ 3 đời trở lại tại nhà của trưởng tộc của các dòng họ. Các gia đình khi đi mang theo một chai rượu, một gói xôi, một miếng thịt, mặc quần áo truyền thống của dân tộc mình, những người được trưởng tộc chỉ định sẽ ngồi xung quanh một cái mâm gỗ có các giỏ đựng xôi, thịt, họ giúp trưởng tộc cùng cúng để gọi hồn những người đã mất về ăn Tết.
Đồ lễ cúng gồm: Sừng trâu (biểu hiện cho chiếc chén mời tổ tiên), củ gừng (tượng trưng cho lời mời gọi tổ tiên về ăn Tết), xọt tre (tượng trưng cho bát, đĩa đựng thức ăn đồ cúng mời tổ tiên), chén vại (để rót rượu mời tổ tiên), thịt trâu, thịt lợn, rượu hoẵng.
Sau khi chuẩn bị xong đồ lễ, trưởng tộc bắt đầu đọc bài cúng với nội dung mời tổ tiên của người La Chí về ăn Tết cùng dân bản, cùng ăn thịt trâu mà dân bản nuôi được, cùng ăn xôi mà dân bản trồng được trên mảnh đất, cùng uống rượu ngọt (rượu hoẵng) như tấm lòng thơm thảo của dân bản có ý nghĩa cầu mong cho cây lúa tốt tươi mùa màng bội thu, cầu cho dân bản sức khỏe, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Tộc trưởng mời các linh hồn về dự hội. |
Kế tiếp, trưởng tộc buộc củ gừng vào sợi chỉ cầm bên tay phải, tay trái cầm sừng trâu, bên trong đựng rượu hoẵng, miệng đọc bài cúng ba đời trở lại. Trưởng tộc sẽ mời các linh hồn là nam giới trước tiên, các linh hồn này về sẽ nhập vào những người phụ giúp việc cho trưởng tộc.
Khi các linh hồn nam giới được mời về đầy đủ, trưởng tộc lại dùng củ gừng và sừng trâu chứa rượu, miệng đọc bài cúng đọc tên mời từng linh hồn nữ giới trong dòng tộc về. Các linh hồn này cũng sẽ nhập vào những người nam giới giúp việc. Khi các linh hồn đã về đông đủ thì trưởng tộc lại mời các linh hồn uống nước cà đắng và ăn thịt trâu, ăn xôi, uống rượu hoẵng. Trưởng tộc xin các linh hồn phù hộ cho dòng họ ngày càng cường thịnh. Nước cà đắng có tác dụng xua đuổi những tà ma bám theo linh hồn người chết khi quay về nhà. Nhờ uống nước này, mà tà ma không vào được nhà, không quấy rối linh hồn và người sống trong những ngày Tết. Các linh hồn nam giới được ăn thịt trâu, thịt lợn muối chua. Riêng thịt trâu dùng để cúng có thể xào với gừng hoặc không kèm gừng, nhưng không được cho rau thơm, vì theo người La Chí, rau thơm không tốt khi xào cùng thịt trâu. Người xào thịt trâu không được nếm trước, nếu không sẽ bị coi là phạm thượng, bị Tổ tiên trách phạt.
Hai người đánh trống với tư thế đứng thẳng. |
Kết thúc phần cúng là màn đánh chiêng trống, ban đầu đội hình gồm hai người đánh chiêng và hai người đánh trống với tư thế đứng thẳng không được nhún nhảy sẽ đồng thời gõ dạo một đoạn, tiếp đến các trưởng họ sẽ đứng dậy cầm đôi dùi trống vái Mổ Cóc và các trưởng họ khác, ban đầu trưởng họ sẽ đánh trống bên phải nhún người theo nhịp trống.
Thầy cúng cầm đôi dùi trống vái Mổ Cóc. |
Tiếp đến thầy cúng nhảy một vòng theo chiều kim đồng hồ sang đánh mặt trống đối diện, cứ như vậy các trưởng họ lần lượt đánh trống. Điệu múa trống, múa chiêng thể hiện sự vui mừng phấn khởi của dân bản sau một năm trồng trọt chăn nuôi, mùa màng bội thu và cũng là sự tôn kính và cảm ơn tổ tiên đã phù hộ cho dân bản sức khỏe, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Thầy cúng nhảy một vòng theo chiều kim đồng hồ. |
Sau mỗi một năm tổ chức tết Khu Cù Tê của Dân tộc La Chí các tràng trai, cô gài lại được gặp nhau trò chuyện, tâm sự với nhau thông qua các lời hát giao duyên của các tràng trai, cô gái họ gửi gắm chia sẻ với nhau những tình cảm, tình yêu đôi lứa sau một thời gian lao động vất vả và chào đón một năm mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Nghi thức uống rượu của người La Chí trong tết Khu Cù Tê. |
Khi tiếng trống của người phụ giúp cuối cùng dừng lại cũng là lúc nghi lễ kết thúc. Chủ nhà chuẩn bị mâm, bát, rượu, thịt cùng ăn uống chúc tụng nhau đến tối khuya mới về nhà. Sau buổi cúng này các gia đình trong họ mới được phép làm cỗ mời họ hàng đến ăn, bắt đầu từ gia đình người em út, cứ thế tiếp diễn theo thứ tự lớn dần và khoá đuôi là nhà anh cả.
Sôi động trò chơi nhảy dây của người La Chí. |
Trò chơi tung còn cũng được phụ nữ La Chí say sưa chơi trong ngày hội. |
Phần hội luôn thu hút đông đảo đồng bào tham gia. |
Tết Khu Cù Tê của người La Chí có lịch sử lâu đời, là dịp người trong dòng tộc, cộng đồng ở khắp nơi về sum họp, tưởng nhớ Tổ tiên, cầu mong cuộc sống ấm no, hạnh phúc, qua đó góp phần duy trì và củng cố mối gắn kết cộng đồng, dân tộc. Với những giá trị lịch sử, văn hóa Tết Khu Cù Tê của người La Chí ở Hà Giang đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Tên tự gọi: Cù tê.
Tên gọi khác: Thổ Ðen, Mán, Xá.
Dân số: 13.158 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai (ngữ hệ Thái – Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng La Ha, Cơ Lao, Pu Péo.
Lịch sử: Người La Chí có lịch sử cư trú lâu đời ở Hà Giang, Lào Cai.
Hoạt động sản xuất: Người La Chí giỏi nghề khai khẩn và làm ruộng bậc thang, trồng lúa nước. Họ gặt lúa nếp bằng hái nhắt còn gặt lúa tẻ bằng liềm, đập lúa vào máng gỗ lấy thóc ngay ở ngoài ruộng. Họ sử dụng cả ba loại nương với các công cụ sản xuất khác nhau: gậy chọc lỗ, cuốc, cày. Người ta dành nương tốt nhất để trồng chàm, bông.
Ăn: Người La Chí có cách nấu và ghế cơm bằng hơi nước rất độc đáo. Cơm nấu trong chảo to, cơm sôi thì vớt lên cho vào chõ đồ như đồ xôi. Cơm dỡ ra không bị nát mà khô dẻo nhờ được đồ chín bằng hơi nước nóng. Có nhiều cách giữ thực phẩm để ăn dần như sấy khô, làm thịt chua là phổ biến nhất. Da trâu sấy khô là món ăn rất được ưa chuộng.
Họ thích để răng đen. Răng càng đen càng đẹp. Thanh niên thích bịt răng vàng coi đó là hình thức làm duyên làm dáng, dấu hiệu của sự trưởng thành.
Mặc: Ðàn ông mặc áo dài năm thân, cài khuy bên nách phải, tóc dài quá vai, đội khăn cuốn hay khăn xếp, thích đeo túi vải chàm có viền đỏ xung quanh để đựng diêm thuốc và các thứ lặt vặt.
Phụ nữ mặc quần, một số ít còn mặc váy. Bộ y phục truyền thống là chiếc áo dài tứ thân xẻ giữa, yếm thêu, thắt lưng bằng vải. Vào dịp tết, lễ người ta còn diện ba chiếc áo dài lồng vào nhau. Nữ giới ưa dùng khăn đội đầu dài gần 3 mét. Màu chàm đen rất được ưa thích. Nữ đeo vòng tai, vòng tay.
Nam chỉ đeo vòng tay. Thầy cúng mỗi khi hành lễ có y phục riêng. Ðó là bộ quần áo thụng, dài quá mắt cá chân, xẻ giữa, có thắt lưng bằng vải, đầu đội mũ vải rộng, có quai. Trong một số nghi lễ, người hành lễ đeo một miếng da trâu khô hoặc đội nón.
Ở: Họ thường sống từng làng ở vùng núi đất các huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần (Hà Giang). Nhà của mỗi gia đình là một quần thể kiến trúc gồm nhà sàn - nhà trệt - kho thóc trong một phạm vi không gian hẹp.
Kiểu kiến trúc kết hợp chặt chẽ giữa sàn và nhà trệt là một sáng tạo văn hoá độc đáo. Mỗi nhà gồm hai phần bằng nhau, mái lồng vào nhau, phần nhà sàn để ở, phần nhà trệt là nơi làm bếp.
Lên nhà mới phải mời thầy cúng về cúng xua đuổi ma bằng cách dùng ba cây cỏ lá khua bốn góc nhà, bắt đầu từ góc của bố mẹ trước. Nếu người con trai đã có bàn thờ ở nhà cũ thì tháo bàn thờ đó về lắp ở nhà mới trong vị trí của người chủ gia đình. Trong suốt 13 ngày kể từ hôm lên nhà mới, bếp lửa luôn luôn sáng thì mới may mắn.
Phương tiện vận chuyển: Có sự kết hợp giữa cách vận chuyển của cư dân vùng cao và cư dân vùng thung lũng. Phụ nữ phổ biến dùng địu đan bằng giang hoặc địu vải.
Cái địu đều có quai đeo trên trán để chuyên trở. Ðàn ông dùng địu có hai quai đeo vai kiểu địu của người Hmông hoặc dùng đòn gánh đôi dậu. Người La Chí địu trẻ em trên lưng khi đi xa hoặc lúc làm việc.
Chiếc máng lần là phương tiện dẫn nước phổ biến về đến tận nhà hay gần nhà. Từ bến nước người ta chứa nước vào những ống bương dài tới 1,5m và vác lên nhà sàn để gần chạn bát dùng dần.
Dùng ngựa để thồ hàng cũng là một phương tiện phổ biến.
Các quan hệ xã hội: Gia đình ba thế hệ hay các cặp vợ chồng cùng thế hệ chung sống với nhau là phổ biến. Mỗi họ có người đứng chăm lo việc cúng. Ðó không phải là trưởng họ mà chỉ là người biết cúng. Người ta chọn người giữ vị trí này bằng cách bói xem xương đùi gà.
Người La Chí có cách gọi tên theo nguyên tắc phụ tử liên doanh với công thức là: họ - pô (bố) - tên con - tên riêng của người được gọi. Người phụ nữ có con được gọi theo công thức sau: Mìa (mẹ) - tên con cả - tên chồng.
Tục nhận bố mẹ nuôi cho trẻ sơ sinh khá phổ biến. Trẻ chào đời sau ba buổi sáng, gia chủ đặt một sợi chỉ đỏ trên một trên một bát nước đầy ở trên bàn thờ, chờ ai đó vào nhà trước sẽ được làm bố mẹ nuôi, đặt tên cho cháu bé. Trẻ khóc nhiều được quan niệm là tên chưa hợp, phải bói tìm dòng họ thích hợp làm bố mẹ nuôi đặt tên cho con.
Thờ cúng: Người ta cúng tổ tiên vào các dịp lễ tết. Tổ tiên được cúng ba đời đối với nam, hai đời đối với nữ. Theo phong tục, bố mẹ chôn ngày nào con cái nhớ suốt đời không được gieo giống hay cho vay, mượn vào ngày đó. Ðó không phải là ngày sinh sôi, phát triển.
Trong một nhà có nhiều bàn thờ cho mỗi người đàn ông.
Bàn thờ dựng theo thứ tự của bố, con trai út, các con trai thứ, trong cùng của con trai cả. Mỗi bàn thờ được coi là hoàn thành phải qua ba lần cúng dỡ đi lập lại bàn thờ mới.
Học: Các kiến thức và kinh nghiệm dân gian được trao truyền giữa các thế hệ bằng miệng. Thần thoại, cổ tích đặc biệt phong phú giải thích cho thế hệ trẻ nhiều hiện tượng thiên nhiên và xã hội theo quan niệm dân gian.
Văn nghệ: Ngày tết, lễ trai gái thường hát đối đáp, chơi đàn tính 3 dây, đàn môi. Trống, chiêng được dùng phổ biến.
Chơi: Tết Nguyên đán nam nữ thường tập trung ở bãi rộng chơi ném còn, đánh quay, chơi đu thăng bằng. Tết tháng tám họ chơi đu dây. Trẻ em thích chơi ống phốc.
Theo cema.gov.vn