Tết cổ truyền độc đáo của người Cờ Lao ở Hà Giang

Tết cổ truyền độc đáo của người Cờ Lao ở Hà Giang
Cộng đồng dân tộc Cờ Lao ở trên địa bàn tỉnh Hà Giang là một trong những dân tộc rất ít người của cả nước. Dù vậy, nét văn hóa phong tục ăn tết của người Cờ Lao vẫn giữ được khá nguyên vẹn và có nhiều điểm độc đáo. Trong đó, cộng đồng người Cờ Lao ở xã Túng Sán, huyện Hoàng Su Phì, được xem là một trong những nơi vẫn gìn giữ được các phong tục, tập quán của dân tộc mình. Điển hình phải kể đến phong tục đón Tết cổ truyền.
Tết có ý nghĩa rất lớn với người Cờ Lao vì theo bà con đây chính là những ngày bình an, vui vẻ nhất trong năm, mọi người, mọi nhà đều được nghỉ ngơi và cùng nhau đón xuân mới. Họ quan niệm những ngày tết chính là dịp con cháu được báo hiếu ông bà, cha mẹ, tạ lễ tổ tiên và các vị thần đã phù độ cho con cháu người Cờ Lao được khỏe mạnh, công việc thuận buồm xuôi gió cả năm may mắn. Dịp tri ân công đức tổ tiên và các vị thần linh chính là lễ cúng mang nghi thức tâm linh, chính vì vậy rất được người dân quan tâm.
 
Tết có ý nghĩa rất lớn với người Cờ Lao.
Tết có ý nghĩa rất lớn với người Cờ Lao.

Không khí ngày Tết thường đến với các gia đình Cờ Lao từ rất sớm, vào ngày 23 tháng chạp âm lịch trong các ngôi nhà đã bắt đầu bận rộn chuẩn bị cho lễ cúng thần bếp, một vị thần không thể thiếu trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Từ đó cho đến ngày 25 tháng chạp, các thành viên trong gia đình sẽ tập trung quét dọn nhà cửa thật sạch sẽ chờ đón năm mới.

Thế nhưng, không khí rộn ràng thật sự bắt đầu vào ngày 26 tháng chạp khi các nhà mổ lợn chuẩn bị ăn Tết. Theo người già ở đây cho biết, trước đây nhà nào cũng phải mổ một con lợn béo đã được nuôi từ trong năm để ăn Tết vì cái Tết của người Cờ Lao không thể thiếu thịt lợn được. Mọi phần chuẩn bị gần như đã xong, nhưng cần làm một thức bánh đặc trưng trong ngày Tết nữa đó là bánh giầy; trong các ngôi nhà những thành viên gia đình sẽ trở về quây quần bên nhau để làm bánh. Khi bếp bập bùng đỏ lửa, những mẻ xôi nếp sẽ được đồ trong chõ gỗ, đến lúc mùi thơm của hương gạo nếp tỏa ra khắp nhà thì người đứng bếp liền nhanh tay đổ ra mẹt lá chuối xanh, rồi từng mẻ xôi lại được đổ vào các cối giã bánh giầy do 2 người đứng giã. Người Cờ Lao sẽ làm một chiếc bánh lớn bằng cái mâm và một số bánh bé to bằng miệng bát để ăn Tết. Những âm thanh của tiếng chày giã bánh cùng với tiếng cười nói náo nhiệt tạo nên sự vui vẻ, đầm ấm trong từng mái nhà.

Sau khi các lễ vật dùng để đặt lên bàn thờ tổ tiên đã chuẩn bị xong, người ta đặt 3 chiếc bánh giầy bé lên bàn thờ. Ngoài ra, người Cờ Lao sẽ treo chiếc bánh giầy lớn và 3 túm bánh nhỏ mỗi túm có 3 chiếc bánh, 1 miếng thịt lợn hun khói ở bên trái bàn thờ cho linh hồn của bố, mẹ về ăn tết. Vì theo phong tục của người Cờ Lao, hàng cháu phải làm lễ cúng ông, bà trước nên khi bố hoặc mẹ mất đi sẽ chưa được cúng ở trên bàn thờ tổ tiên mà phải cúng riêng ở bên cạnh.

Đến đêm 30 tết, một nồi nước thuốc lá cây với rất nhiều loại lá hái ở trên rừng và trong vườn nhà về như: lá chè, ổi, long não, bưởi… được nấu lên để cả nhà tắm rửa sạch sẽ. Sau đó, người ta dâng mâm cơm cúng mời tổ tiên về ăn Tết lên bàn thờ, các lễ vật bắt buộc phải có gồm: 1 con gà trống, 3 miếng thịt lợn luộc cắt vuông, bánh dày, rượu, vàng hương. Theo quan niệm của người Cờ Lao thì gà trống có ý nghĩa quét nhà, quét đi những điều xấu ra khỏi nhà để đón cái tốt của năm mới đến.

Lễ mở cửa - khai môn năm mới được thực hiện vào đêm giao thừa. Lúc này, chủ nhà phải chuẩn bị một sàng gạo, tiền xu, tiền giấy và gà trống đặt trước cửa, và đọc bài cúng bằng tiếng dân tộc, sau đó nhận lời chúc phúc, chúc lộc từ mọi người.

Sáng mùng 1 tết, cúng cơm sẽ là việc phải làm đầu tiên; nhưng đặc biệt trong ngày này người ta kiêng không cho con gái đi ra khỏi nhà, không quét nhà hay làm bất cứ việc gì từ sáng đến tối. Thường thì họ sẽ chờ người khách là nam giới đến xông nhà, chúc tết xong thì con gái trong nhà mới được đi chơi xuân. Mùng 2 tết người ta sẽ mổ 2 con gà trống dành để thờ thủ công và bà mụ của trẻ con cầu mong sức khỏe, an khang, tài lộc… Đến mùng 3, nếu chọn được ngày tốt thì các gia đình sẽ hạ bánh giầy lớn xuống và kết thúc 3 ngày tết.

Giống như các dân tộc khác, ngày tết là dịp để cả thôn, bản cùng hòa mình vào các hoạt động sôi động như: đánh yến, đánh cù, đẩy gậy, đu quay… Trong các trò chơi dân gian này, những chàng trai, cô gái mới có dịp khoe quần áo mới đẹp nhất, tài nghệ khéo léo trong trò chơi. Người già và trẻ em cũng tham gia, đến xem, cổ vũ, hát múa… tạo nên không khí tưng bừng ngày Tết.
Theo dantocviet.cinet.gov.vn
Dân tộc Cờ Lao Dân tộc Cờ Lao

Tên tự gọi: Cờ Lao.

Tên gọi khác: Tứ Ðư, Ho Ki, Voa Ðề.

Nhóm địa phương: Cờ Lao Xanh, Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Ðỏ.

Dân số: 2.636 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Lịch sử: Người Cờ Lao chuyển cư tới Việt Nam cách đây khoảng 150 - 200 năm.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai, cùng nhóm với tiếng La Ha, La Chí, Pu Péo (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). Trước đây, các nhóm địa phương có phương ngữ khác nhau nhưng hiện nay đa số người Cờ Lao Ðỏ, Cờ Lao Xanh không còn nói được tiếng mẹ đẻ của mình nữa. Tuỳ theo quá trình tiếp xúc, cộng cư họ quen sử dụng tiếng Quan Hỏa, tiếng Nùng hay tiếng Pu Péo, Mông.

Hoạt động sản xuất: Bộ phận người Cờ Lao ở vùng cao núi đá tai mèo chủ yếu làm nương cày, thổ canh hốc đá. Ngô là cây lương thực chính. Trên nương họ còn trồng đậu răng ngựa, lúa mạch, đậu Hà lan, su hào... Người Cờ Lao có truyền thống dùng phân chuồng, phân tro và nhiều kinh nghiệm sử dụng phân bón trên nương. Phân tro được bón vào từng hốc khi tra ngô.

Bộ phận người Cờ Lao ở vùng núi đất chuyên sống bằng nghề làm ruộng bậc thang, lúa là cây lương thực chính. Nghề thủ công truyền thống là đan lát (nong, bồ, phên, cót...) và làm đồ gỗ (bàn, hòm, yên ngựa, quan tài, các đồ đựng bằng gỗ). Nhiều làng có thợ rèn sửa chữa nông cụ.

Ăn: Tuỳ nơi, họ ăn ngô chế thành bột mèn mén hoặc ăn cơm, quen dùng bát, thìa muôi bằng gỗ.

Mặc: Phụ nữ mặc áo cùng loại với áo người Nùng, Giáy nhưng dài quá gối áo được trang trí bằng những miếng vải đáp trên hò áo, ngực, tay áo. Trước đây người Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Xanh còn mặc thêm chiếc áo ngắn tay ra ngoài áo dài để phô những miếng vải mầu đắp trên tay áo trong, chân cuốn xà cạp.

: Người Cờ Lao thường sống thành từng làng khoảng 15 - 20 nóc nhà ở vùng núi đất huyện Hoàng Su Phì, hoặc núi đá tai mèo ở huyện Ðồng Văn (Hà Giang). Nhà ba gian hai trái, mái lợp cỏ gianh hoặc các ống vầu, nứa bổ đôi xếp úp ngửa. Người Cờ Lao Ðỏ làm nhà trình tường như người láng giềng Pu Péo.

Phương tiện vận chuyển: Dùng ngựa để thồ hàng là một phương tiện vận chuyển phổ biến của người Cờ Lao. Họ quen dùng địu đan bằng giang có hai quai đeo vai. Hàng ngày họ phải địu nước về nhà; ở vùng núi đất, dùng máng lần đưa nước về đến tận nhà hay gần nhà.

Quan hệ xã hội: Mỗi nhóm Cờ Lao thường có dòng họ khác nhau như các họ Vần, Hồ, Sếnh, Chảo (Cờ Lao Trắng), Min, Cáo, Sú Lý (Cờ Lao Ðỏ), Sáng (Cờ Lao Xanh). Gia đình nhỏ phụ hệ là phổ biến. Nếu nhà không có con trai, người ta thường lấy rể về ở rể. Con rể vẫn giữ họ của mình nhưng có quyền thừa kế tài sản nhà vợ. Người ở rể có bàn thờ tổ tiên mình và bàn thờ bố mẹ vợ.

Cưới xin: Tục lệ cưới xin khác nhau giữa các nhóm. Chú rể Cờ Lao Xanh mặc áo dài xanh, cuốn khăn đỏ qua người. Cô dâu về đến cổng phải dẫm vỡ một cái bát, một cái muôi gỗ đã để sẵn trước cổng. Cô dâu Cờ Lao Ðỏ chỉ ngủ lại nhà chồng đêm hôm đón dâu. Cách cưới kéo vợ hay cướp vợ như người Mông vẫn thường xảy ra.

Sinh đẻ: Người Cờ Lao không có tục chôn hay treo nhau đẻ lên cây mà thường đem đốt, rồi bỏ tro than vào hốc đá trên rừng. Con trai được đặt tên sau 3 ngày 3 đêm, con gái 2 ngày 3 đêm, ở một số nơi trẻ được đặt tên khi đầy tháng. Trong lễ đặt tên cúng tổ tiên và thần Ghi Trếnh, vị thần bảo vệ trẻ em, theo phong tục, bà ngoại đặt tên và tặng cháu quà.

Ma chay: Trong tang lễ có phong tục làm ma hai lần: lễ chôn người chết và lễ làm chay. Ở người Cờ Lao xanh, lễ làm chay có thể tiến hành ngay hôm chôn hay một vài năm sau. Người chết được cúng đưa hồn về Chan San, quê hương xưa. Người Cờ Lao Ðỏ có phong tục xếp đá quanh mộ, cứ 10 tuổi lại xếp một vòng đá. Các vòng đá tuổi được phủ kín đất; trên cùng lại xếp thêm một vòng đá nữa.

Thờ cúng: Người Cờ Lao tin mỗi người có 3 hồn; lúa, bắp và gia súc cũng đều có hồn. Hồn lúa (hồn lúa bố, hồn lúa mẹ, hồn lúa vợ và hồn lúa chồng) được cúng mỗi khi gặt xong và cúng vào dịp Tết 5 tháng 5. Tổ tiên được thờ 3 hay 4 đời. Thần đất là vị thần quan trọng được gia đình và toàn bản thờ cúng.

Lễ tết: Người Cờ Lao ăn Tết Nguyên đán, Tết Mùng 3 tháng 3, mùng 5 tháng 5, 15 tháng 7 và mùng 9 tháng 9 âm lịch như nhiều dân tộc ở vùng đông bắc Việt Nam.

Học: Chữ Hán được sử dụng phổ biến trong việc cúng lễ. Ngày nay như các dân tộc khác trong cả nước, học sinh được học tiếng Việt và chữ phổ thông.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm