Nhà cửa truyền thống của người Chứt (nhóm Mã Liềng) là những ngôi nhà sàn tạm bợ, lợp bằng lá cây rừng, hay là những ngôi nhà sàn nhỏ đơn giản làm bằng những thứ gỗ, tre tranh rất sẵn có trong rừng. Mặc dù thế nhưng những nghi lễ xung quanh việc dựng nhà cũng hết sức phức tạp.
Để dựng một ngôi nhà sàn, chủ nhà chuẩn bị các vật liệu tương đối đầy đủ, đem đến chỗ mảnh đất đã chọn. Sau đó chủ nhà tự chọn lấy một ngày tháng tốt (thường là ngày và tháng chẵn trong năm về mùa khô). Sau khi định được ngày tốt, chủ nhà làm lễ cúng thổ địa, thần linh rồi sau đó tự mình dựng lấy cột Côlôốc (cột ma) lên trước, sau đó mời nhờ dân bản đến giúp đỡ dựng lợp nhà. Riêng cột ma chỉ có chủ nhà mới được ngồi lên lợp.
Công cụ để làm nhà là những con dao, cái rìu, cái rựa. Kỹ thuật làm nhà cũng rất dơn giản, chủ yếu là gá lắp buộc dây qua các ngàm đỡ bị mục mọt và đứt. Đây là những ngôi nhà nhỏ, có hai mái thấp không có đầu hồi, các vì kèo được buộc bằng các sợi dây rừng rất đơn giản.
Bộ khung nhà bao gồm 2 xà và 4 vì kèo được buộc vào nhau bằng các sợi dây rừng. Sàn nhà được lát bằng tre nứa đập dập, khoảng cách giữa sàn nhà và mặt đất chừng 0,8m. Bố trí nội thất trong nhà của người Chứt (nhóm Mã Liềng) cũng rất đơn giản.
Nhà không có vách ngăn và phân chia thành các buồng riêng biệt. Chính giữa nhà là nơi đặt bếp, đây là nơi diễn ra mọi sinh hoạt của gia đình từ ăn uống, vui chơi cho đến ngủ nghỉ tiếp khách...Phía trong nhà là nơi ngủ nghỉ của chủ nhà và các con cái. Phía ngoài nhà là 2 cầu thang và 2 cửa số. Phía hai đầu nhà là nơi để dụng cụ sản xuất và dụng cụ sinh hoạt...
Những nghi lễ, tín ngưỡng liên quan đến ngôi nhà
Khi làm nhà xong, chủ nhà lại tự mình nhóm và nhen lửa bắc bếp. Bếp lửa phải được cháy liên tục trong vòng 3 ngày đêm. Sau đó chủ nhà tổ chức lễ cúng để báo cho tổ tiên ông bà và các thần linh biết và cầu xin sự phù hộ độ trì cho gia đình được may mắn trong cuộc sống và quanh năm bếp lửa vẫn cháy. Đây là một ước muốn hết sức chính đáng của đồng bào khi cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn, không phải lúc nào cũng có lửa cháy trên bếp.
Trong ngôi nhà sàn hay nhà đất, cột thờ ma (cột Cô lôốc) là chiếc cột giữa hàng sau nơi các ma ông bà tổ tiên của gia đình trú ngụ, là nơi linh thiêng của mỗi gia đình cho nên chiếc cột này không phải ai cũng có quyền đụng vào, đó là nơi người con dâu và con rể cần phải kiêng kỵ nhất. Đối với con dâu khi về nhà chồng không được đụng vào cột thờ ma. Nhưng các con của con dâu thì không bị kiêng kỵ. Phụ nữ Chứt (nhóm Mã Liềng) trong thời gian hành kinh không được tự do đi lại trong nhà của mình, mà phải ăn uống một chỗ trong nhà. Đối với người con rể khi đến ở nhà bố mẹ vợ, chiếc cột ma anh ta cũng không được đụng vào.
Hiện nay nhà cửa của người Chứt (nhóm Mã Liềng) chủ yếu do Nhà nước hỗ trợ. Tuy nhiên, đối với những gia đình chưa nhận được sự hỗ trợ đó, họ phải làm nhà. Dù ngôi nhà đơn giản người Chứt (nhóm Mã Liềng) cũng tiến hành đầy đủ các nghi lễ.
Như vậy, qua việc tìm hiểu nghi lễ, tín ngưỡng của người Chứt (nhóm Mã Liềng) có thể thấy thấy tín ngưỡng đó thuộc nhiều loại pha trộn, chồng chéo với nhau. Nhưng từ những hình thức phức tạp đó, chúng ta vẫn thấy dấu ấn của một trình độ tư duy, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của tộc người.
Ngày nay, cùng với công việc xây dựng cuộc sống mới những tín ngưỡng, tôn giáo chỉ còn lại trong kỷ ức của người già như một tàng tích của thời qúa khứ. Tuy nhiên, do đời sống kinh tế của đồng bào quá nghèo nàn, lạc hậu nhận thức còn thấp kém, thì các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng vẩn còn cơ sở để tồn tại.
Theo langvietonline.vn
Tên tự gọi: Chứt.
Tên gọi khác: Rục, Arem, Sách.
Nhóm địa phương: Mày, Rục, Sách, Arem, Mã Liềng.
Dân số: 6.022 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Quê hương xưa của người Chứt thuộc địa bàn cư trú của người Việt ở hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Vì nạn giặc giã, thuế khoá nặng nề nên họ phải chạy lên nương náu ở vùng núi, một số dần dần chuyển sâu vào vùng phía tây thuộc hai huyện Minh Hoá và Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Theo gia phả của một số dòng họ người Việt trong vùng thì các nhóm Rục, Sách cư trú tại vùng núi này ít nhất đã được trên 500 năm nay.
Hoạt động sản xuất: Người Chứt sống bằng nông nghiệp nương rẫy du canh và săn bắn hái lượm. Trừ nhóm Sách sống bằng nông nghiệp còn các nhóm khác hái lượm và săn bắn chiếm vị trí quan trọng, thậm chí là nguồn sống chính trong những năm mất mùa. Các giống cây trồng chính là ngô, sắn, đỗ, lúa.
Công cụ sản xuất gồm: rìu, rựa, gậy chọc lỗ, nơi làm ruộng có thêm cày, bừa. Từ khi định cư, người Chứt đã nuôi trâu, bò phục vụ cày bừa, làm sức kéo. Ðan lát chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng trong gia đình. Ðôi nơi họ biết thêm nghề rèn dao, rìu.
Ăn: Lương thực chủ yếu là ngô, sắn. Ngày ăn hai bữa trưa và tối. Những năm mất mùa, họ phải ăn bột báng (bột nhúc) đồ thay cơm quanh năm.
Mặc: Người Chứt không biết dệt vải, vải mặc mua hoặc trao đổi với người Việt, người Lào trong vùng giáp biên. Mùa hè, nam giới đóng khố, cởi trần. Phụ nữ mặc váy. Mùa đông, họ mặc áo làm bằng vỏ cây. Hiện nay đồng bào ăn mặc giống như người Việt.
Ở: Họ quen ở trong các túp lều dùng dây buộc, dùng cột ngoãm hay ở trong các hang đá, mái đá. Cho đến trước năm 1954 các nhóm Rục, Arem chủ yếu vẫn sống trong các hang đá, mái đá. Ngày nay, họ sống tập trung ở các bản nhỏ trong các thung lũng. Nhà cửa đã khang trang hơn trước.
Phương tiện vận chuyển: Phổ biến là gùi có dây đeo vai, vác hoặc người kéo.
Quan hệ xã hội: Người Chứt gọi làng là Cà Vên. Mỗi làng thường chỉ có dăm bảy hoặc mười gia đình của một dòng họ cư trú. Ðôi khi các gia đình trong một họ lại cư trú ở nhiều làng khác nhau. Ðứng đầu mỗi làng là Pừ Cà Vên. Ông ta giữ luôn cả vai trò tôn giáo.
Sinh hoạt tập thể, quan trọng nhất trong làng là vào những dịp lễ tết nông nghiệp. Gia đình nhỏ phụ quyền là hình thức phổ biến nhất. Mỗi gia đình chỉ gồm vợ, chồng và con cái chưa lấy vợ, chồng.
Sinh đẻ: Sắp đến ngày ở cữ, người chồng thường dựng một cái lều nhỏ cho vợ ở ngoài rừng. Thỉnh thoảng anh ta đến thăm nom, tiếp tế lương thực và đồ ăn uống cho vợ. Phụ nữ quen đẻ đứng và tự xoay sở lấy hết thảy mọi việc. Ðẻ xong, người sản phụ tự mình nhóm lửa, đốt nóng một hòn đá cuội để sẵn rồi dội nước lã vào cho bốc hơi nóng để xông khói. Sau 7 ngày, người chồng mới đến đón vợ con vào nhà.
Cưới xin: Trai gái đến tuổi trưởng thành, được tự do tìm hiểu yêu đương. Trước khi cưới, nhà trai phải chọn ông mối, đi dạm hỏi vài lần. Lễ cưới được tổ chức bên nhà gái, sau đó mới đón dâu. Lễ vật quan trọng nhất thiết phải có thịt khỉ sấy khô. Người Chứt không có tục ở rể.
Ma chay: Nhà giàu làm quan tài bằng thân cây khoét rỗng; nhà nghèo chỉ bó người chết bằng vỏ cây.
Thờ cúng: Tổ tiên được thờ tại nhà tộc trưởng. Khi tộc trưởng chết, việc thờ cúng chuyển sang người em trai kế. Khi nào các thế hệ trên không còn ai thì việc thờ cúng mới chuyển sang cho người ở thế hệ dưới.
Tin vào các loại ma rừng, ma suối, thổ công, ma bếp.... trong đó quan trọng nhất là ma làng.
Các nghi lễ nông nghiệp thường được thực hiện như lễ xuống giống, lễ sau gieo hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ ăn mừng được mùa.
Văn nghệ: Người Chứt thích dùng đàn, sáo, hát các giai điệu khác nhau. Họ có nhiều truyện cổ tích, thần thoại, đặc biệt truyện kể về sự khai thiên lập địa và sinh ra con người.
Chơi: Trong các dịp lễ tết, trẻ em chơi cầu lông làm bằng lông gà, đánh găng, người lớn thổi sáo, hát hò.
Theo cema.gov.vn