Tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm

Tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm

Ngày 21/11, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào dân tộc Chăm đến từ tỉnh Ninh Thuận đã tổ chức tái hiện Lễ hội Katê của dân tộc mình. Đây là hoạt động văn hóa đặc sắc trong Tuần "Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản văn hóa Việt Nam" năm 2020.

Tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm  ảnh 1Đồng bào Chăm thực hiện nghi thức đón y phục từ đồng bào Raglai. Ảnh: Hoàng Hải

Lễ hội Katê là bức tranh phác họa đời sống sinh hoạt cộng đồng, nơi hội tụ những giá trị tinh hoa văn hóa của đồng bào dân tộc Chăm. Lễ hội mang ý nghĩa tưởng nhớ tổ tiên, ông bà, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu; cầu mong cho sự hòa hợp lứa đôi, sự sinh sôi nảy nở của con người và vạn vật.

Tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm  ảnh 2Đồng bào Raglai đem y phục trao cho đồng bào Chăm để tiến hành Lễ hội Katê. Ảnh: Hoàng Hải

Cứ vào đầu tháng 7 Chăm lịch hàng năm (khoảng cuối tháng 9 hoặc trong tháng 10 dương lịch), đồng bào dân tộc Chăm lại tưng bừng tổ chức lễ hội Katê.

Tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm  ảnh 3Đồng bào Chăm làm lễ đón nhận y phục từ đồng bào Raglai. Ảnh: Hoàng Hải

Trước tiên là lễ đón rước y phục của nữ thần Po Ina Nagar - Thần Mẹ xứ sở. Y phục của nữ thần Po Ina Nagar do dân tộc Raglai ở trên vùng núi cao cất giữ, khi đến ngày thì mang xuống để trao cho đồng bào Chăm theo nghi thức của lễ hội. Đồng bào Chăm quan niệm, trang phục của vua chúa Chăm được dâng lên ở tất cả các đền, tháp cổ đều do người Raglai bảo vệ.

Tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm  ảnh 4Y phục được bà con rước lên đền, tháp thiêng để làm lễ. Ảnh: Hoàng Hải

Trước khi rước y phục lên tháp, đoàn người Raglai tập trung đông đủ, ông Camanei (ông Từ giữ đền) dâng cúng lễ vật, gồm: trứng, rượu, trầu cau và xin phép thần được rước y phục về tháp.

Tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm  ảnh 5Y phục được bà con rước lên đền, tháp thiêng để làm lễ. Ảnh: Hoàng Hải

Lễ mở cửa tháp do một vị cả sư và ông Từ trông coi tháp điều hành. Lễ vật gồm có rượu, trứng, trầu cau, nước tắm thần có pha trầm hương… Trong không khí trang nghiêm, vị cả sư đọc kinh hành lễ. Ông Camanei (ông Từ) cầm lọ nước tắm thần tạt lên tượng phù điêu thần Siva trên vòm cửa chính của tháp. Tiếp đến, ông Kadhar (thầy kéo đàn Kanhi) và Muk Pajâu (bà Bóng) tiến đến trước cửa tháp chính để hát lễ xin mở cửa tháp. Sau đó, bà Bóng và ông Từ bắt đầu mở cửa tháp trong khói hương trầm nghi ngút. Tiếp theo là lễ tắm tượng thần. Lễ này được diễn ra bên trong đền, tháp. Phần nghi lễ này gồm có Cả sư, ông Kadhar - thầy kéo đàn Kanhi, hát những bài ca tụng công ơn của các vị vua, Muk Pajâu (bà Bóng), ông Camanei (ông Từ) và một số tín đồ nhiệt thành khác. Vị Cả sư cầm lọ nước thánh có pha trầm hương tưới lên tượng thần.

Tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm  ảnh 6Bà con chuẩn bị lễ mở cửa tháp. Ảnh: Hoàng Hải

Lễ tắm tượng thần kết thúc là đến phần nghi lễ mặc áo cho thần. Lễ được tiến hành nhịp nhàng theo các câu hát của thầy kéo đàn Kanhi và tiếng hát của ông Kadhar. Khi ông Kadhar đang hát thì ông Camanei và Muk Pajâu mặc váy, áo cho tượng thần. Cứ như thế cho đến khi mặc y phục cho vua xong.

Tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm  ảnh 7Xiêm y được rước vào tháp để thực hiện nghi lễ thay xiêm y cho tượng thần. Ảnh: Hoàng Hải
Tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm  ảnh 8Bà con ở bên ngoài trang nghiêm làm lễ. Ảnh: Hoàng Hải

Khi tượng thần đã mặc trên mình bộ xiêm bào lộng lẫy, các lễ vật dâng cúng được bày trước bệ thờ. Phía ngoài, mọi người cùng nhau dâng các sản vật quý được làm và thu hoạch trong năm cũ để dâng lên các vị thần. Chủ trì buổi lễ và ban cúng lễ cùng hát lời mời các vị thần về dự lễ. Thầy Cả sư đọc kinh cầu nguyện xin các thần về hưởng lễ và phù hộ độ trì cho con cháu làm ăn phát đạt trong năm mới.

Tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm  ảnh 9Bà con chuẩn bị sản vật để dâng các vị thần. Ảnh: Hoàng Hải
Tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm  ảnh 10Các nghi lễ trong tháp kết thúc, chủ lễ tuyên bố bà con bắt đầu vui hội. Ảnh: Hoàng Hải

Sau khi kết thúc nghi lễ, bên ngoài tháp bắt đầu rộn ràng những điệu múa truyền thống của thiếu nữ Chăm hòa nhịp cùng tiếng trống Ginăng, kèn Saranai…

Tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm  ảnh 11Các thiếu nữ Chăm với những điệu múa truyền thống. Ảnh: Hoàng Hải
Tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm  ảnh 12Trong tiếng trống, tiếng kèn rộn rã, bà con cùng vui hội Katê. Ảnh: Hoàng Hải
Tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm  ảnh 13Trong tiếng trống, tiếng kèn rộn rã, bà con cùng vui hội Katê. Ảnh: Hoàng Hải

Lễ hội Katê của đồng bào Chăm diễn ra hàng năm đã góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc.

Hoàng Tâm

(DTMN)
Dân tộc Chăm Dân tộc Chăm

Tên gọi khác: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời...

Nhóm địa phương: Chăm Hroi, Chăm Poổng, Chà Và Ku, Chăm Châu Ðốc.

Dân số: 161.729 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Polynéxia (ngữ hệ Nam Ðảo).

Lịch sử: Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hoá rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chăm pa. Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh ThuậnBình Thuận chủ yếu theo đạo Bà la môn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Ðốc, Tây Ninh, An Giang, Ðồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới.

Hoạt động sản xuất: Người Chăm có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu.

Nghề thủ công phát triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng duyên hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền nổi tiếng trong lịch sử.

Ăn: Người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất nung lớn, nhỏ. Thức ăn gồm cá, thịt, rau củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi, trồng trọt đem lại. Thức uống có rượu cần và rượu gạo. Tục ăn trầu cau rất phổ biến trong sinh hoạt và trong các lễ nghi phong tục cổ truyền.

Mặc: Nam nữ đều quấn váy tấm. Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ ngực cài khuy. Ðàn bà mặc áo dài chui đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông. Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền Trung, chỉ có chiếc áo dài chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên.

Vào dịp lễ Ramưwan, nam nữ người Chăm thường khoác lên mình trang phục truyền thống với nhiều sắc màu thể hiện bản sắc riêng của cộng đồng người Chăm. Ảnh Nguyễn Thanh.jpg
Vào dịp lễ Ramưwan, nam nữ người Chăm thường khoác lên mình trang phục truyền thống với nhiều sắc màu thể hiện bản sắc riêng của cộng đồng người Chăm. Ảnh Nguyễn Thanh

: Người Chăm cư trú tại Ninh Thuận, Bình Thuận, ở nhà đất (nhà trệt). Mỗi gia đình có những ngôi nhà được xây cất gần nhau theo một trật tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ và các con nhỏ tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đó có kho thóc, buồng tân hôn và là chỗ ở của vợ chồng cô gái út.

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu và thường xuyên vẫn là cái gùi cõng trên lưng. Cư dân Chăm cũng là những người thợ đóng thuyền có kỹ thuật cao để hoạt động trên sông và biển. Họ làm ra những chiếc xe bò kéo, trâu kéo có trọng tải khá lớn để vận chuyển trên bộ.

Quan hệ xã hội: Gia đình người Chăm mang truyền thống mẫu hệ, mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội đẳng cấp, phong kiến. Ở những vùng theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ tiên. Cư dân Chăm vốn được phân thành hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dòng Niê và Mlô ở dân tộc Ê đê. Về sau thị tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Dưới thị tộc là các dòng họ theo huyết hệ mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út. Mỗi dòng họ lại có nhiều chi họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã hội Ấn Ðộ cổ đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt: không được thiết lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng một xóm, không ăn cùng một mâm...

Cưới xin: Phụ nữ chủ động trong quan hệ luyến ái. Hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Sính lễ do nhà gái lo liệu. Gia đình một vợ một chồng là nguyên tắc trong hôn nhân.

Ma chay: Người Chăm có hai hình thức đưa người chết về thế giới bên kia là thổ táng và hoả táng. Nhóm cư dân theo đạo Bà la môn thường hoả táng theo giáo luật, còn các nhóm cư dân khác thì thổ táng. Những người trong cùng một dòng họ thì được chôn cất cùng một nơi theo huyết hệ mẹ. 

Nhà mới: Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận khi dựng nhà mới phải thực hiện một số nghi lễ cúng thần như: cúng Thổ thần để đốn gỗ tại rừng. Khi gỗ vận chuyển về làng phải làm lễ đón cây. Lễ phạt mộc được tổ chức để khởi công cho việc xây cất ngôi nhà. 

Lễ tết: Người ta thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một chu kỳ năm như: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng. Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon katê được tổ chức linh đình tại các đền tháp vào giữa tháng mười âm lịch.

Lịch: Người Chăm có nông lịch cổ truyền tính theo lịch âm.

Học: Dân tộc Chăm có chữ từ rất sớm. Hiện tồn tại nhiều bia kí, kinh bằng chữ Chăm. Chữ Chăm được sáng tạo dựa vào hệ thống văn tự Sascrit, nhưng việc sử dụng chữ này còn rất hạn hẹp trong tầng lớp tăng lữ và quý tộc xưa. Việc học hành, truyền nghề, vẫn chủ yếu là truyền khẩu và bắt chước, làm theo. 

Văn nghệ: Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da Paranưng, trống vỗ, kèn xaranai. Nền dân ca - nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca - nhạc cổ của người Việt ở miền Trung như trống cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế... Dân vũ Chăm được thấy trong các ngày hội Bon katê diễn ra tại các đền tháp. 

Thiếu nữ Chăm biểu diễn điệu múa truyền thống trong lễ hội Katê. Ảnh Nguyễn Thanh.jpg
Thiếu nữ Chăm biểu diễn điệu múa truyền thống trong lễ hội Katê. Ảnh Nguyễn Thanh

Chơi: Trẻ em thích đánh cù và thả diều, đánh trận giả, thi cướp cờ, chơi trò bịt mắt bắt dê.  

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm