Sắc chàm của người Mông ở Sa Pa

Sắc chàm của người Mông ở Sa Pa

Nghề nhuộm chàm độc đáo của bà con dân tộc Mông ở Sa Pa đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ và màu chàm thắm mãi như một biểu tượng của văn hóa nơi đây. Cùng với nghệ thuật nhuộm chàm, người Mông ở Sa Pa cũng khám phá ra những kỹ thuật trang trí đậm sắc mầu văn hóa của dân tộc mình.

Sinh sống lâu đời ở vùng miền núi Tây Bắc và Đông Bắc, gồm các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Tuyên Quang, Yên Bái, Điện Biên, Sơn La, Hà Giang, Cao Bằng và Nghệ An người Mông còn bảo lưu được nhiều phong tục tập quán, đặc biệt là việc dệt vải, thêu may các bộ trang phục dân tộc đặc sắc. Để phục vụ công việc này, hầu như người phụ nữ dân tộc Mông nào đến tuổi trưởng thành cũng biết se lanh dệt vải, nhuộm chàm, thêu thùa với những họa tiết cầu kỳ, tinh tế thể hiện tài năng, sự khéo léo của người phụ nữ.

Ở Sa Pa, người Mông chiếm 52% dân số chung của toàn huyện. Điều đặc biệt là hầu hết những người phụ nữ dân tộc Mông ở đây đều có đôi bàn tay nhuốm màu chàm bởi đó chính là công việc hằng ngày của họ.

Sắc chàm của người Mông ở Sa Pa  ảnh 1Đôi bàn tay nhuốm màu chàm của người phụ nữ Mông ở Sa Pa

Kỹ thuật nhuộm vải lanh bằng lá chàm khiến vải thành màu xanh đậm, màu đặc trưng của các đồng bào dân tộc thiểu số. Màu nhuộm xanh này từng được người Mông dùng để nhuộm vải may áo từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Sắc chàm của người Mông ở Sa Pa  ảnh 2 Từ những cây lanh được trồng, thu hoạch trong thiên nhiên, đồng bào Mông thu hoạch về phơi khô, tách lấy sợi
Sắc chàm của người Mông ở Sa Pa  ảnh 3Để làm thuốc nhuộm, lá chàm được thu hoạch và ngâm cùng nước suối sạch trong thùng lớn suốt 3 ngày

Để làm thuốc nhuộm, lá chàm được thu hoạch và ngâm cùng nước suối sạch trong thùng lớn suốt 3 ngày. Sau đó, họ vớt bã ra và cho vôi vào khuấy đều khoảng vài giờ cho tới khi xuất hiện lớp màu vàng hoặc xanh trên bề mặt. Khi dung dịch chàm vôi lắng xuống đáy thùng, họ cho thêm tro đốt từ gỗ chất lượng tốt, cháo, nước và cồn và để trong vòng 4-5 ngày cho tới khi thấy bọt sủi lên. Công cuộc sản xuất màu nhuộm đã hoàn thành.

Sắc chàm của người Mông ở Sa Pa  ảnh 4Kỹ thuật dùng sáp ong chế tác hoa văn trên vải thổ cẩm của người Mông ở Sa Pa.

Người Mông trồng chàm dọc các sườn đồi. Họ dùng lá tràm để làm thuốc nhuộm bằng cách cho lên men và oxy hóa. Để tạo ra được thuốc nhuộm chàm chất lượng tốt ngoài việc có nguyên liệu chuẩn thì cũng cần phải có người nhiều kinh nghiệm. Cả quy trình nhuộm mất khoảng từ mười ngày, thậm chí cả một tháng.

Sắc chàm của người Mông ở Sa Pa  ảnh 5Người Mông trồng chàm dọc các sườn đồi. Họ dùng lá tràm để làm thuốc nhuộm bằng cách cho lên men và oxy hóa.

Người Mông làm vải đen bằng cách lặp lại quy trình nhuộm nhiều lần. Đây cũng là lý do tại sao phụ nữ Mông thường có những bàn tay nhuốm màu xanh vì họ phải dùng tay để làm việc.

Sau cùng, để tấm vải bóng đẹp hơn, họ dùng sáp ong để nhuộm lại một lần nữa. Từ đó, những người phụ nữ Mông sẽ thỏa sức trang trí hoa văn lên những tấm vải của mình.

Nguyễn Thị Thanh Hương

(Trung tâm Thông tin Thư viện, ĐH Công nghiệp Hà Nội)
Dân tộc Mông Dân tộc Mông

Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo.

Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.

Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo.

Dân số: 1.068.189 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao.

Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu...

Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.

Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.

Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép. Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.

Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ.

Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.

Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.

Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.

Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.

Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.

Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Tuổi thơ hồn nhiên của trẻ em dân tộc Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu (Sơn La). Ảnh Lưu Trọng Đạt.jpg
Tuổi thơ hồn nhiên của trẻ em dân tộc Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu (Sơn La). Ảnh Lưu Trọng Đạt

: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.

Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.

Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.

Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.

Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.

Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.

Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.

Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ...

Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.

Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.

Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.

Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.

Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.

Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).

Các vận động viên dân tộc Mông thi đấu môn bắn nỏ tại Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc huyện Than Uyên (Lai Châu). Ảnh Quý Trung.jpg
Các vận động viên dân tộc Mông thi đấu môn bắn nỏ tại Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc huyện Than Uyên (Lai Châu). Ảnh Quý Trung

Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm