Người giữ hồn chữ Nôm - Dao Đà Bắc

Người giữ hồn chữ Nôm - Dao Đà Bắc

Dân tộc Dao Tiền ở bản Sưng, xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình có nền văn hóa truyền thống lâu đời, có tiếng nói, chữ viết riêng. Tuy nhiên, theo thời gian, chữ viết của người Dao Tiền nơi đây đang bị mai một.

Người giữ hồn chữ Nôm - Dao Đà Bắc ảnh 1Ông Lý Văn Hềnh, xã Cao Sơn (Đà Bắc) mở các lớp học miễn phí truyền dạy cho bà con biết đọc, viết chữ Nôm-Dao cổ. Ảnh: Trọng Đạt- TTXVN

Với nguyện vọng bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa bản địa, ông Lý Văn Hềnh, xã Cao Sơn vốn là người am hiểu ngôn ngữ, chữ viết và còn lưu giữ nhiều sách Dao cổ đã mở các lớp học miễn phí truyền dạy cho người dân bản Sưng và các địa phương lân cận biết đọc, viết chữ Nôm - Dao cổ, những phong tục tập quán…của dân tộc Dao Tiền.

Lớp học dạy chữ Nôm - Dao ở bản Sưng được xây dựng theo phong tục của người Dao, đó là có vị trí cao, lưng tựa núi, phía trước mặt là không gian thoáng đạt có thể phóng tầm mắt ra xa. Lớp học có gần 30 học sinh là những người đàn ông Dao Tiền với nhiều độ tuổi khác nhau cùng các em nhỏ ở bản Sưng và các bản lân cận.

Ông Hềnh xuất thân từ gia đình có truyền thống học chữ Nôm - Dao. Ngay từ nhỏ, ông đã được bố truyền dạy chữ viết, văn hóa, tập tục truyền thống của dân tộc Dao. Từ năm 18 tuổi, ông thành thạo chữ viết, các làn điệu dân ca, các câu thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ dân tộc Dao Tiền, các điệu múa dân gian và các tập tục trong việc hành lễ tâm linh…Với vốn chữ Nôm - Dao thành thạo, ông Lý Văn Hềnh đã sưu tầm, viết, biên soạn và phổ biến các cuốn sách dạy chữ viết Nôm - Dao, sách về tâm linh, luật tục, tập tục của người Dao Tiền cho cộng đồng người Dao ở các địa phương trong tỉnh.

Trước thực tế số đông người dân tộc Dao, không chỉ các em nhỏ mà ngay cả nhiều người trung niên, cao tuổi không am hiểu và biết viết, đọc chữ Nôm - Dao cổ của dân tộc mình, năm 2008, được sự giúp đỡ của thành viên Mạng lưới bảo tồn tri thức bản địa dân tộc thiểu số tỉnh Hòa Bình, ông Hềnh đã lập tờ trình đề nghị UBND xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc được dạy phổ biến chữ Nôm - Dao cho cán bộ và nhân dân trong vùng.

Với tâm nguyện truyền dạy chữ viết cho cộng đồng và để lưu giữ những nét văn hóa độc đáo của người Dao Tiền cho các thế hệ mai sau, sau khi được sự cho phép và hỗ trợ từ chính quyền, ông Hềnh bắt đầu dạy chữ Nôm - Dao cho con cháu trong gia đình, dòng tộc và nhân dân trong vùng bằng phương pháp học cổ truyền. Đến nay, hầu hết mọi người đều am hiểu rõ về ngôn ngữ, chữ viết, tập tục của người Dao và có thể truyền dạy các tri thức của người Dao cho những người xung quanh.

Ông Lý Hồng Minh, lớp trưởng lớp học chữ Nôm - Dao của ông Hềnh tại bản Sưng chia sẻ, người Dao Tiền ở bản Sưng ai cũng ý thức gìn giữ bản sắc văn hóa bản địa. Người đàn ông Dao Tiền phải biết ngôn ngữ, chữ viết để thờ cúng tổ tiên. Lớp học của thầy Hềnh mở ra dân bản Sưng ai cũng vui mừng, phấn khởi. Chúng tôi cùng các thế hệ con cháu trong bản được học chữ, học được những lễ nghi, phong tục tập quán của ông cha.

Tại lớp học của ông Hềnh, các học sinh không chỉ được học về chữ viết Nôm - Dao cổ mà còn học các làn điệu dân ca Dao Tiền như: hát Khía, hát đối đáp giao duyên và hát trong các lễ làm đám tâm linh dân tộc Dao như: múa chèo, múa chuông, điệu nhảy…Tiếng lành đồn xa, nhiều người dân ở các xã khác trong tỉnh Hòa Bình hay các tỉnh lân cận như Mộc Châu (Sơn La), Thanh Thủy (Phú Thọ) khi biết có lớp học chữ Dao đã đăng ký tham gia mong học được đọc thông viết thạo chữ Nôm - Dao để truyền dạy lại cho con cháu trong gia đình, dòng tộc.

Tuổi đã cao nhưng ông Hềnh vẫn đi xe máy vượt hàng chục km đến các điểm mở lớp tại các địa phương trong huyện và các tỉnh lân cận để truyền dạy chữ Nôm - Dao cùng những tri thức văn hóa vốn có cho đồng bào dân tộc Dao Tiền. Đến nay, ông Hềnh đã mở được sáu lớp học chữ ở các xã: Cao Sơn, Vầy Nưa, Đoàn Kết, Tân Pheo, Hiền Lương và hai lớp ở Phú Thọ và Sơn La.

Người giữ hồn chữ Nôm - Dao Đà Bắc ảnh 2 Bản Sưng tại xã Cao Sơn (Đà Bắc, Hòa Bình). Ảnh: Trọng Đạt - TTXVN

Phó Chủ tịch UBND xã Cao Sơn Bàn Văn Xuân cho biết, từ ngày có lớp học chữ Dao của thầy Hềnh, người dân bản Sưng và các địa phương trong huyện Đà Bắc đã hiểu, biết đọc, viết ngôn ngữ, chữ viết, văn hóa người Dao. Điều này đã góp phần giữ gìn, bảo tồn nét đẹp văn hóa của dân tộc mà còn giúp mọi người hiểu về nhân nghĩa, gìn giữ nếp sống, phong tục tập quán đẹp của dân tộc Dao Tiền Đà Bắc.

Chính quyền xã Cao Sơn cũng như huyện Đà Bắc nhiều năm qua đã tạo mọi điều kiện để người dân tộc thiểu số nói chung và người dân tộc Dao Tiền trên địa bàn có thể bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình.

Lưu Trọng Đạt

(TTXVN)
Dân tộc Dao Dân tộc Dao

Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).

Tên gọi khác: Mán.

Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).

Dân số: 751.067 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.

Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.

Hoạt động sản xuất: Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.

Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.

Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...

Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.

Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.

Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay.

Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.

Mặc: Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.

Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục theo rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.

: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.

Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.

Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.

Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.

Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.

Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.

Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.

Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.


Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được.

Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa.

Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.

Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.

Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo.

Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm