Gìn giữ nét đẹp văn hóa người Cờ Lao đỏ (Bài 2)

Chị Min Thị Nguyệt giới thiệu về bộ váy áo cổ đã được lưu truyền 16 đời người. Ảnh: Nam Thái – TTXVN
Chị Min Thị Nguyệt giới thiệu về bộ váy áo cổ đã được lưu truyền 16 đời người. Ảnh: Nam Thái – TTXVN

Từ nhiều đời nay, người Cờ Lao đỏ (Hà Giang) đã sinh sống ở những bản làng bên sườn dãy Tây Côn Lĩnh. Là dân tộc rất ít người, trải qua thời gian, những giá trị văn hóa cốt lõi của người Cờ Lao đỏ tại Hà Giang đã có sự thay đổi, nhiều nét đẹp truyền thống được gìn giữ, bảo tồn từ đời này qua đời khác, nhưng cũng có không ít đặc trưng đã bị mất đi, phai mờ theo thời gian.

Phóng viên TTXVN giới thiệu bài 2 trong chùm bài viết về công tác bảo tồn những đặc trưng, nét đẹp văn hóa của người Cờ Lao đỏ tại Hà Giang.

Bài 2 - Một số nét đặc trưng bị mai một

Theo thời gian cùng sự chung sống và giao lưu buôn bán với các dân tộc khác, một số nét đặc trưng của người Cờ Lao đỏ tại Túng Sán, huyện Hoàng Su Phì (Hà Giang) đã bị mai một, mất đi. Trước thực trạng này, những người làm văn hóa đang trăn trở về việc phục dựng lại để thế hệ sau của người Cờ Lao đỏ biết được ngôn ngữ, đặc trưng của dân tộc mình.

Khi tiếng Cờ Lao không còn được sử dụng

Theo Phó Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin huyện Hoàng Su Phì Trần Chí Nhân, do đặc điểm và thói quen sống quần cư nên người Cờ Lao xã Túng Sán sống theo làng, bản. Tuy nhiên, trong các làng, bản của người Cờ Lao vẫn có một số dân tộc khác sống đan xen. Điều đó đã tạo nên sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc với nhau, thể hiện qua sự biến điệu, pha trộn về ngôn ngữ, trang phục, phong tục tập quán và một số lễ nghi truyền thống.

Gìn giữ nét đẹp văn hóa người Cờ Lao đỏ (Bài 2)  ảnh 1 Bộ váy áo cổ tương truyền đã được lưu giữ, bảo tồn qua 16 đời người. Ảnh: Nam Thái – TTXVN

Hiện những em nhỏ người dân tộc Cờ Lao đỏ tại Túng Sán gần như không còn nói được tiếng Cờ Lao. Ngoài tiếng Việt được sử dụng phổ thông khi đi học, các em giao tiếp với nhau bằng những ngôn ngữ khác.

Không chỉ người trẻ không nói được tiếng Cờ Lao, mà ngay cả người già cũng không còn nhiều người biết tiếng của dân tộc mình. Theo một số cụ cao niên tại xã Túng Sán, tiếng Cờ Lao hiện tại chỉ còn xuất hiện ở những bài văn cúng cổ, hoặc một số đoạn của các bài hát dân ca. Tuy nhiên, đời nọ truyền lại đời kia theo lối truyền miệng, rất ít người hiểu được ý nghĩa thực sự. Vì vậy, bà con mong muốn Đảng và Nhà nước sẽ xây dựng một đề án để khôi phục lại vốn ngôn ngữ, vì ngôn ngữ cũng là văn hóa rất quan trọng của đồng bào.

Là người tận tâm với công tác bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ông Bùi Thanh Hưởng, Trưởng phòng Dân tộc huyện Hoàng Su Phì luôn trăn trở về việc ngôn ngữ của người Cờ Lao đỏ tại Túng Sán ngày càng mai một. Ông Bùi Thanh Hưởng cho biết: Đồng bào hiện đang sử dụng ngôn ngữ tiếng Hán để giao tiếp trong đời sống hàng ngày. Bà con đã không còn nói được tiếng Cờ Lao gốc của mình nữa.

Chúng tôi rất mong muốn từ những chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ xây dựng một đề án để có thể khôi phục lại vốn ngôn ngữ, vì ngôn ngữ cũng là văn hóa rất quan trọng của đồng bào, ông Bùi Thanh Hưởng chia sẻ.

Trang phục truyền thống không còn giữ nguyên bản

Hiện người Cờ Lao đỏ tại Túng Sán mặc trang phục truyền thống nguyên bản là điều rất hiếm gặp. Theo chị Min Thị Nguyệt (thôn 4 Tả Chải, xã Túng Sán), để phù hợp với đời sống hàng ngày trong lao động, sản xuất, giao thương, buôn bán, bà con giờ không còn thường xuyên mặc váy như trước nữa. Việc may áo giờ cũng được cải tiến, cách tân đi nhiều.

Gìn giữ nét đẹp văn hóa người Cờ Lao đỏ (Bài 2)  ảnh 2Chị Min Thị Nguyệt giới thiệu về bộ váy áo cổ đã được lưu truyền 16 đời người. Ảnh: Nam Thái – TTXVN

Phó Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin huyện Hoàng Su Phì Trần Chí Nhân chia sẻ: Trước đây, chất liệu vải để may quần áo và các vật dụng đi kèm của người Cờ Lao được nhân dân tự dệt bằng lanh hoặc sợi bông tự trồng, sau đó đem nhuộm bằng nhựa củ nâu và lá chàm. Mỗi gia đình đều có những chiếc xa để quay sợi lanh, một hoặc hai chiếc khung cửi. Thời gian gần đây, trang phục thường ngày của bà con đã có nhiều sự thay đổi. Trang phục của phụ nữ được may bằng vải Trung Quốc, có màu xanh dương, quần đen. Khăn đội đầu được thay bằng khăn len nhiều màu có từng ô vuông màu xanh hoặc màu đỏ. Tuy nhiên, kiểu dáng và hình thức trang phục của cả nam và nữ vẫn được giữ nguyên.

Cũng theo ông Trần Chí Nhân, trang phục nam cổ truyền đặc trưng nổi bật nhất là áo 4 thân dài đến ngang mông, mở đằng trước, khuy bằng vải, cổ đứng. Áo có 3 túi và chủ yếu đều khâu bằng vải đen, chất liệu vải mộc nhuộm bằng lá chàm. Trang phục truyền thống của phụ nữ thường được may bằng chất liệu vải mộc tự dệt, nhuộm màu đen. Áo may dài đến đầu gối, 4 thân, tà xẻ dài 2 bên hông, cổ đứng, áo cài cúc chéo sang bên nách phải; phần trên ngực áo được trang trí vòng tròn trước, sau bằng những khoanh vải có màu sắc đẹp. Hai ống tay áo được may đáp bằng một mảnh vải hoa rộng khoảng 2 cm hoặc có khâu nảy các nét chỉ màu, cách gấu áo 3 - 5 cm.

Gìn giữ nét đẹp văn hóa người Cờ Lao đỏ (Bài 2)  ảnh 3Phụ nữ Cờ Lao trong trang phục truyền thống.Nguồn: baotintuc.vn

Hiện nay, phụ nữ dân tộc Cờ Lao đỏ chủ yếu vẫn sử dụng trang phục theo kiểu truyền thống; tuy nhiên không thường xuyên và không nguyên bản như bộ trang phục gốc bởi sự giao thoa giữa các dân tộc và để thuận tiện trong đời sống, sinh hoạt, sản xuất hàng ngày. Bộ trang phục truyền thống chủ yếu chỉ được sử dụng trong những dịp quan trọng...

Vấn đề này không chỉ xảy ra ở nhóm người Cờ Lao đỏ tại Túng Sán mà một số dân tộc khác cũng diễn ra tình trạng tương tự. Đối với dân tộc rất ít người như Cờ Lao, việc không sử dụng thường xuyên trang phục truyền thống gốc sẽ tiềm ẩn nguy cơ mất đi trang phục truyền thống giống như ngôn ngữ. Tất nhiên, điều đó sẽ không diễn ra trong một vài năm, mà phải trải qua quá trình nhiều năm.

Những năm gần đây, sự chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế đã tạo điều kiện tích cực cho đồng bào mở mang giao lưu với các dân tộc khác khiến sự tiếp biến văn hóa diễn ra ở cường độ cao, đã góp phần xóa dần khoảng cách giữa miền núi với miền xuôi. Thế nhưng, sự đổi thay về kinh tế đã khiến cho đồng bào dân tộc Cờ Lao ở đây đang "đánh mất" dần những giá trị văn hóa truyền thống độc đáo của mình.

Việc duy trì bản sắc và sự đa dạng văn hóa của dân tộc Cờ Lao xã Túng Sán, cùng với việc tạo ra cho họ cơ hội tiếp thu những giá trị văn hóa của các dân tộc khác để từng bước đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, hưởng thụ văn hóa, góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế là việc làm cần thiết. (Còn nữa - Bài cuối:Nỗ lực bảo tồn giá trị truyền thống)

Nam Thái

(TTXVN)
Dân tộc Cờ Lao Dân tộc Cờ Lao

Tên tự gọi: Cờ Lao.

Tên gọi khác: Tứ Ðư, Ho Ki, Voa Ðề.

Nhóm địa phương: Cờ Lao Xanh, Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Ðỏ.

Dân số: 2.636 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Lịch sử: Người Cờ Lao chuyển cư tới Việt Nam cách đây khoảng 150 - 200 năm.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai, cùng nhóm với tiếng La Ha, La Chí, Pu Péo (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). Trước đây, các nhóm địa phương có phương ngữ khác nhau nhưng hiện nay đa số người Cờ Lao Ðỏ, Cờ Lao Xanh không còn nói được tiếng mẹ đẻ của mình nữa. Tuỳ theo quá trình tiếp xúc, cộng cư họ quen sử dụng tiếng Quan Hỏa, tiếng Nùng hay tiếng Pu Péo, Mông.

Hoạt động sản xuất: Bộ phận người Cờ Lao ở vùng cao núi đá tai mèo chủ yếu làm nương cày, thổ canh hốc đá. Ngô là cây lương thực chính. Trên nương họ còn trồng đậu răng ngựa, lúa mạch, đậu Hà lan, su hào... Người Cờ Lao có truyền thống dùng phân chuồng, phân tro và nhiều kinh nghiệm sử dụng phân bón trên nương. Phân tro được bón vào từng hốc khi tra ngô.

Bộ phận người Cờ Lao ở vùng núi đất chuyên sống bằng nghề làm ruộng bậc thang, lúa là cây lương thực chính. Nghề thủ công truyền thống là đan lát (nong, bồ, phên, cót...) và làm đồ gỗ (bàn, hòm, yên ngựa, quan tài, các đồ đựng bằng gỗ). Nhiều làng có thợ rèn sửa chữa nông cụ.

Ăn: Tuỳ nơi, họ ăn ngô chế thành bột mèn mén hoặc ăn cơm, quen dùng bát, thìa muôi bằng gỗ.

Mặc: Phụ nữ mặc áo cùng loại với áo người Nùng, Giáy nhưng dài quá gối áo được trang trí bằng những miếng vải đáp trên hò áo, ngực, tay áo. Trước đây người Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Xanh còn mặc thêm chiếc áo ngắn tay ra ngoài áo dài để phô những miếng vải mầu đắp trên tay áo trong, chân cuốn xà cạp.

: Người Cờ Lao thường sống thành từng làng khoảng 15 - 20 nóc nhà ở vùng núi đất huyện Hoàng Su Phì, hoặc núi đá tai mèo ở huyện Ðồng Văn (Hà Giang). Nhà ba gian hai trái, mái lợp cỏ gianh hoặc các ống vầu, nứa bổ đôi xếp úp ngửa. Người Cờ Lao Ðỏ làm nhà trình tường như người láng giềng Pu Péo.

Phương tiện vận chuyển: Dùng ngựa để thồ hàng là một phương tiện vận chuyển phổ biến của người Cờ Lao. Họ quen dùng địu đan bằng giang có hai quai đeo vai. Hàng ngày họ phải địu nước về nhà; ở vùng núi đất, dùng máng lần đưa nước về đến tận nhà hay gần nhà.

Quan hệ xã hội: Mỗi nhóm Cờ Lao thường có dòng họ khác nhau như các họ Vần, Hồ, Sếnh, Chảo (Cờ Lao Trắng), Min, Cáo, Sú Lý (Cờ Lao Ðỏ), Sáng (Cờ Lao Xanh). Gia đình nhỏ phụ hệ là phổ biến. Nếu nhà không có con trai, người ta thường lấy rể về ở rể. Con rể vẫn giữ họ của mình nhưng có quyền thừa kế tài sản nhà vợ. Người ở rể có bàn thờ tổ tiên mình và bàn thờ bố mẹ vợ.

Cưới xin: Tục lệ cưới xin khác nhau giữa các nhóm. Chú rể Cờ Lao Xanh mặc áo dài xanh, cuốn khăn đỏ qua người. Cô dâu về đến cổng phải dẫm vỡ một cái bát, một cái muôi gỗ đã để sẵn trước cổng. Cô dâu Cờ Lao Ðỏ chỉ ngủ lại nhà chồng đêm hôm đón dâu. Cách cưới kéo vợ hay cướp vợ như người Mông vẫn thường xảy ra.

Sinh đẻ: Người Cờ Lao không có tục chôn hay treo nhau đẻ lên cây mà thường đem đốt, rồi bỏ tro than vào hốc đá trên rừng. Con trai được đặt tên sau 3 ngày 3 đêm, con gái 2 ngày 3 đêm, ở một số nơi trẻ được đặt tên khi đầy tháng. Trong lễ đặt tên cúng tổ tiên và thần Ghi Trếnh, vị thần bảo vệ trẻ em, theo phong tục, bà ngoại đặt tên và tặng cháu quà.

Ma chay: Trong tang lễ có phong tục làm ma hai lần: lễ chôn người chết và lễ làm chay. Ở người Cờ Lao xanh, lễ làm chay có thể tiến hành ngay hôm chôn hay một vài năm sau. Người chết được cúng đưa hồn về Chan San, quê hương xưa. Người Cờ Lao Ðỏ có phong tục xếp đá quanh mộ, cứ 10 tuổi lại xếp một vòng đá. Các vòng đá tuổi được phủ kín đất; trên cùng lại xếp thêm một vòng đá nữa.

Thờ cúng: Người Cờ Lao tin mỗi người có 3 hồn; lúa, bắp và gia súc cũng đều có hồn. Hồn lúa (hồn lúa bố, hồn lúa mẹ, hồn lúa vợ và hồn lúa chồng) được cúng mỗi khi gặt xong và cúng vào dịp Tết 5 tháng 5. Tổ tiên được thờ 3 hay 4 đời. Thần đất là vị thần quan trọng được gia đình và toàn bản thờ cúng.

Lễ tết: Người Cờ Lao ăn Tết Nguyên đán, Tết Mùng 3 tháng 3, mùng 5 tháng 5, 15 tháng 7 và mùng 9 tháng 9 âm lịch như nhiều dân tộc ở vùng đông bắc Việt Nam.

Học: Chữ Hán được sử dụng phổ biến trong việc cúng lễ. Ngày nay như các dân tộc khác trong cả nước, học sinh được học tiếng Việt và chữ phổ thông.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm