Từ nhiều đời nay, người Cờ Lao đỏ (Hà Giang) đã sinh sống ở những bản làng bên sườn dãy Tây Côn Lĩnh. Là dân tộc rất ít người, trải qua thời gian, những giá trị văn hóa cốt lõi của người Cờ Lao đỏ tại Hà Giang đã có sự thay đổi, nhiều nét đẹp truyền thống được gìn giữ, bảo tồn từ đời này qua đời khác, nhưng cũng có không ít đặc trưng đã bị mất đi, phai mờ theo thời gian.
Phóng viên TTXVN thực hiện chùm 3 bài viết về công tác bảo tồn những đặc trưng, nét đẹp văn hóa của người Cờ Lao đỏ tại Hà Giang.
Bài 1- Những giá trị tồn tại hàng trăm năm
Đồng bào dân tộc Cờ Lao nói chung của Việt Nam theo tổng điều tra dân số năm 2019 có khoảng trên 4.000 người; trong đó, người Cờ Lao đỏ sinh sống tại huyện Hoàng Su Phì (Hà Giang) hiện có khoảng hơn 1.000 người với 202 hộ. Đặc biệt, đồng bào Cờ Lao đỏ tại đây sinh sống tập trung ở một số thôn của xã Túng Sán, huyện Hoàng Su Phì và còn lưu giữ được nhiều nét riêng từ đời này sang đời khác.
Cuộc thiên di lớn trong lịch sử
Theo Phó Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin huyện Hoàng Su Phì Trần Chí Nhân, nguồn gốc của người Cờ Lao nói chung và người Cờ Lao xã Túng Sán nói riêng đã được đề cập nhiều trong thư tịch cổ và các tài liệu ghi chép; đặc biệt là các chi tiết từ cuốn gia phả của gia tộc ông Min Hùng Sài cũng như những bài cúng của các thầy cúng trong những dịp lễ tết. Hầu hết các tài liệu đều cho thấy, các họ người Cờ Lao xã Túng Sán có nguồn gốc từ tỉnh Quý Châu, Trung Quốc.
Tương truyền, vào cuối thế kỷ XIX, chiến tranh liên tục xảy ra làm mất mùa, đất đai bạc màu, nên thời vua Đồng Trị thứ 3 đã cho phép các tộc họ người Cờ Lao đi các nơi để kiếm sống, lập nghiệp. Quá trình thiên di được diễn ra thành nhiều đợt. Dẫn đầu đoàn người thiên di sang định cư ở xã Túng Sán (Hoàng Su Phì, Hà Giang) khi đó là một người đàn ông tên Chảo Lù Chín với 7 hộ gia đình của 7 họ gồm: Trảo, Min, Sú, Cáo, Giàng, Ly và họ Vương. Trải qua nhiều đời, người Cờ Lao đỏ vẫn sinh sống trên mảnh đất Túng Sán nhưng vì số lượng quá ít và trải qua biến thiên lịch sử nên chỉ còn 5 dòng họ là: Trảo, Min, Sú, Cáo và Vương.
Cũng theo ông Trần Chí Nhân, mặc dù ý thức về nguồn gốc tộc người đã có phần mờ nhạt do thời gian nhưng trong tiềm thức của người Cờ Lao nói chung vẫn còn lưu giữ một số dấu vết. Biểu hiện rõ nét nhất là các bài cúng trong tang lễ có chi tiết đưa hồn người chết về Quý Châu - tức là nơi phát tích của người Cờ Lao, hoặc trong một số bài dân ca cổ cũng nhắc đến chi tiết này.
Già làng Min Phà Kháy giới thiệu về những nghi thức cúng lễ miếu Hoàng Vần Thùng. Ảnh: Nam Thái - TTXVN
Ông Min Phà Kháy (thôn 4 Tả Chải, xã Túng Sán) là già làng có uy tín tại địa phương. Ông Kháy cho rằng, đồng bào Cờ Lao đỏ lập nghiệp tại đất này cũng đã được 16 đời người. Tính đến nay là được khoảng hơn 200 năm. Đồng bào Cờ Lao có nhiều nhóm người như: Cờ Lao đỏ, Cờ Lao trắng và Cờ lao xanh. Cách gọi như này căn cứ theo trang phục cổ của người Cờ Lao. Bà con sinh sống tại xã Túng Sán thuộc nhóm Cờ Lao đỏ.
Những dấu tích hàng trăm năm
Từ bao đời nay, người Cờ Lao đỏ xã Túng Sán vẫn truyền từ đời này qua đời khác bộ trang phục cổ được cho là đã tồn tại 16 đời người. Họ lưu giữ như báu vật của dân tộc; mỗi năm chỉ được sử dụng vài lần ở những dịp quan trọng như cúng lễ, làm ma khô…
Chị Min Thị Nguyệt (thôn 4 Tả Chải, xã Túng Sán, huyện Hoàng Su Phì) cho biết, bộ váy cổ này được dệt từ vải lông cừu với màu sắc chủ đạo là màu đỏ; đây là căn cứ để người Cờ Lao ở Túng Sán sau này chứng minh nguồn gốc là người Cờ Lao đỏ. Theo chị Min Thị Nguyệt, bộ váy cổ được dòng họ Min gìn giữ để con cháu sau này biết đến và học may theo. Đây cũng là bộ váy cổ nhất mà người Cờ Lao đỏ giữ được cho tới ngày nay.
Ngoài việc ý thức giữ gìn những nét riêng về hiện vật, người Cờ Lao đỏ ở Túng Sán cũng luôn coi trọng việc thờ cúng tâm linh; đây cũng là cách thế hệ trước răn dạy thế hệ sau biết đến nguồn cội, tổ tiên. Khi tổ chức cúng tế, người Cờ Lao xã Túng Sán có 2 nơi cúng cố định, đó là bàn thờ của các gia đình để cúng ma tổ tiên (vào các ngày thanh minh, Rằm tháng 7 âm lịch) và tại miếu của làng (được tổ chức vào tháng 7 âm lịch hàng năm) cúng thần Hoàng Vần Thùng - được coi như Thành Hoàng của tộc người Cờ Lao.
Theo truyền thuyết của người Cờ Lao xã Túng Sán, Hoàng Vần Thùng là người có công khai thiên lập địa và giúp nhân dân trong vùng mở mang khai khẩn, đánh đuổi thú dữ, kẻ thù để giành lại cuộc sống bình yên cho dân làng. Vì vậy, ông được coi như vị Thành Hoàng của các tộc họ người Cờ Lao. Để tưởng nhớ công ơn của ông, vào tháng 7 âm lịch hàng năm, các tộc họ người Cờ Lao đều tổ chức cúng tế tại miếu. Theo già làng Min Phà Kháy, miếu thờ Hoàng Vần Thùng đã tồn tại qua 16 đời người, là chỗ dựa tâm linh cho nhân dân nơi đây. Mọi người cứ có việc gì cũng đều đến đây làm lễ, cầu mong nhận được sự che trở, phù hộ của bề trên.
Bên trong 4 bức tường đất đã bạc màu, những vết nứt thời gian dần xuất hiện theo năm tháng, 5 ban thờ được người Cờ Lao đỏ bày biện trang nghiêm. Ban thờ đầu tiên - Sơn Vương Thiên Tử, người Cờ Lao đỏ thờ phụng với mong muốn cầu mùa màng tốt tươi; ban thứ 2 thờ ông Hoàng Vần Thùng, đến ban thứ 3 thờ người lập ra miếu, ban thứ 4 thờ Bồ Tát với mong muốn cầu con cái và ban cuối cùng thờ Nương Nương cầu khẩn sự bình an, chăn nuôi thuận lợi…
Vào ngày Thìn đẹp nhất của tháng 7 âm lịch, bà con Cờ Lao tại đây lại tổ chức lễ cúng Hoàng Vần Thùng. Mọi người góp lợn, gà, bánh dày, bánh chưng, đậu phụ, bánh kẹo… để dâng lễ; sau đó cùng nhau thụ lộc ngay gian chính của ngôi miếu. Những chén rượu nồng được rót ra cùng những câu chuyện về gia đình, mùa màng khiến bữa cơm thêm tình đoàn kết, gắn bó. (Còn nữa-Bài 2: Một số nét đặc trưng bị mai một)
Nam Thái
Tên tự gọi: Cờ Lao.
Tên gọi khác: Tứ Ðư, Ho Ki, Voa Ðề.
Nhóm địa phương: Cờ Lao Xanh, Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Ðỏ.
Dân số: 2.636 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Lịch sử: Người Cờ Lao chuyển cư tới Việt Nam cách đây khoảng 150 - 200 năm.
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai, cùng nhóm với tiếng La Ha, La Chí, Pu Péo (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). Trước đây, các nhóm địa phương có phương ngữ khác nhau nhưng hiện nay đa số người Cờ Lao Ðỏ, Cờ Lao Xanh không còn nói được tiếng mẹ đẻ của mình nữa. Tuỳ theo quá trình tiếp xúc, cộng cư họ quen sử dụng tiếng Quan Hỏa, tiếng Nùng hay tiếng Pu Péo, Mông.
Hoạt động sản xuất: Bộ phận người Cờ Lao ở vùng cao núi đá tai mèo chủ yếu làm nương cày, thổ canh hốc đá. Ngô là cây lương thực chính. Trên nương họ còn trồng đậu răng ngựa, lúa mạch, đậu Hà lan, su hào... Người Cờ Lao có truyền thống dùng phân chuồng, phân tro và nhiều kinh nghiệm sử dụng phân bón trên nương. Phân tro được bón vào từng hốc khi tra ngô.
Bộ phận người Cờ Lao ở vùng núi đất chuyên sống bằng nghề làm ruộng bậc thang, lúa là cây lương thực chính. Nghề thủ công truyền thống là đan lát (nong, bồ, phên, cót...) và làm đồ gỗ (bàn, hòm, yên ngựa, quan tài, các đồ đựng bằng gỗ). Nhiều làng có thợ rèn sửa chữa nông cụ.
Ăn: Tuỳ nơi, họ ăn ngô chế thành bột mèn mén hoặc ăn cơm, quen dùng bát, thìa muôi bằng gỗ.
Mặc: Phụ nữ mặc áo cùng loại với áo người Nùng, Giáy nhưng dài quá gối áo được trang trí bằng những miếng vải đáp trên hò áo, ngực, tay áo. Trước đây người Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Xanh còn mặc thêm chiếc áo ngắn tay ra ngoài áo dài để phô những miếng vải mầu đắp trên tay áo trong, chân cuốn xà cạp.
Ở: Người Cờ Lao thường sống thành từng làng khoảng 15 - 20 nóc nhà ở vùng núi đất huyện Hoàng Su Phì, hoặc núi đá tai mèo ở huyện Ðồng Văn (Hà Giang). Nhà ba gian hai trái, mái lợp cỏ gianh hoặc các ống vầu, nứa bổ đôi xếp úp ngửa. Người Cờ Lao Ðỏ làm nhà trình tường như người láng giềng Pu Péo.
Phương tiện vận chuyển: Dùng ngựa để thồ hàng là một phương tiện vận chuyển phổ biến của người Cờ Lao. Họ quen dùng địu đan bằng giang có hai quai đeo vai. Hàng ngày họ phải địu nước về nhà; ở vùng núi đất, dùng máng lần đưa nước về đến tận nhà hay gần nhà.
Quan hệ xã hội: Mỗi nhóm Cờ Lao thường có dòng họ khác nhau như các họ Vần, Hồ, Sếnh, Chảo (Cờ Lao Trắng), Min, Cáo, Sú Lý (Cờ Lao Ðỏ), Sáng (Cờ Lao Xanh). Gia đình nhỏ phụ hệ là phổ biến. Nếu nhà không có con trai, người ta thường lấy rể về ở rể. Con rể vẫn giữ họ của mình nhưng có quyền thừa kế tài sản nhà vợ. Người ở rể có bàn thờ tổ tiên mình và bàn thờ bố mẹ vợ.
Cưới xin: Tục lệ cưới xin khác nhau giữa các nhóm. Chú rể Cờ Lao Xanh mặc áo dài xanh, cuốn khăn đỏ qua người. Cô dâu về đến cổng phải dẫm vỡ một cái bát, một cái muôi gỗ đã để sẵn trước cổng. Cô dâu Cờ Lao Ðỏ chỉ ngủ lại nhà chồng đêm hôm đón dâu. Cách cưới kéo vợ hay cướp vợ như người Mông vẫn thường xảy ra.
Sinh đẻ: Người Cờ Lao không có tục chôn hay treo nhau đẻ lên cây mà thường đem đốt, rồi bỏ tro than vào hốc đá trên rừng. Con trai được đặt tên sau 3 ngày 3 đêm, con gái 2 ngày 3 đêm, ở một số nơi trẻ được đặt tên khi đầy tháng. Trong lễ đặt tên cúng tổ tiên và thần Ghi Trếnh, vị thần bảo vệ trẻ em, theo phong tục, bà ngoại đặt tên và tặng cháu quà.
Ma chay: Trong tang lễ có phong tục làm ma hai lần: lễ chôn người chết và lễ làm chay. Ở người Cờ Lao xanh, lễ làm chay có thể tiến hành ngay hôm chôn hay một vài năm sau. Người chết được cúng đưa hồn về Chan San, quê hương xưa. Người Cờ Lao Ðỏ có phong tục xếp đá quanh mộ, cứ 10 tuổi lại xếp một vòng đá. Các vòng đá tuổi được phủ kín đất; trên cùng lại xếp thêm một vòng đá nữa.
Thờ cúng: Người Cờ Lao tin mỗi người có 3 hồn; lúa, bắp và gia súc cũng đều có hồn. Hồn lúa (hồn lúa bố, hồn lúa mẹ, hồn lúa vợ và hồn lúa chồng) được cúng mỗi khi gặt xong và cúng vào dịp Tết 5 tháng 5. Tổ tiên được thờ 3 hay 4 đời. Thần đất là vị thần quan trọng được gia đình và toàn bản thờ cúng.
Lễ tết: Người Cờ Lao ăn Tết Nguyên đán, Tết Mùng 3 tháng 3, mùng 5 tháng 5, 15 tháng 7 và mùng 9 tháng 9 âm lịch như nhiều dân tộc ở vùng đông bắc Việt Nam.
Học: Chữ Hán được sử dụng phổ biến trong việc cúng lễ. Ngày nay như các dân tộc khác trong cả nước, học sinh được học tiếng Việt và chữ phổ thông.
Theo cema.gov.vn