Đám cưới người Cống

Đám cưới người Cống
Đối với các chàng trai người Cống đến tuổi trưởng thành và muốn lập tổ ấm của riêng mình, chàng trai sẽ tìm hiểu và lựa chọn người thiếu nữ khác họ mà mình thầm yêu trộm nhớ. Khi đã tìm được người ưng ý, buổi tối chàng trai sẽ đến chọc sàn và rủ cô gái đó ra ngoài để trò chuyện tâm sự. Qua trò chuyện, nếu có sự đồng cảm và yêu nhau nhưng chưa công khai thì đôi trai gái vẫn chỉ được tâm sự với nhau ở dưới nhà sàn hoặc ở ngoài sàn. Khi đã bén duyên cô gái phải thưa chuyện với bố, mẹ. Sau đó người con trai đến nhà người yêu mình thì lên tiếng từ cầu thang. Không ưng, họ sẽ không ra mở cửa và chàng trai sẽ hiểu rằng gia đình không bằng lòng với tình yêu của hai người. Còn ngược lại, nếu đồng ý, bố mẹ cô gái sẽ mở cửa cho vào nhà. Sau khi nhận được tín hiệu chấp thuận, chàng trai mới được vào nhà trò chuyện cùng gia đình cô gái.

Nếu thuận thì một thời gian sau sẽ làm lễ đặt rể. Đây là lễ để chàng trai đi ở rể nhà người yêu. Lễ này thường được tổ chức vào tháng 1 Âm lịch. Khi tổ chức lễ đặt rể, bên nhà trai gồm: bố, mẹ, anh em họ hàng (cũng có khi cả bản) đến nhà gái. Trong lễ này nhất thiết bố, mẹ chàng trai phải cùng đi, nếu một trong hai người đã mất thì phải mượn vợ chồng bác hoặc vợ chồng chú hoặc cô ruột (những người ngang hàng với cha mẹ chàng trai) đi thay và phải đi cả đôi, không được đi lẻ bởi đồng bào Cống quan niệm rằng đi lẻ là không hạnh phúc, không may mắn.
 
Trưởng lý của làng làm nghi lễ cho đám cưới. Ảnh: Nguồn Internet
Trưởng lý của làng làm nghi lễ cho đám cưới. Ảnh: Nguồn Internet

Khi đã có người đến ở rể nhà mình, cô gái bắt đầu búi tóc ngược lên đỉnh đầu, đó là dấu hiệu của người con gái Cống đã có chồng. Thời gian ở rể, họ có quyền sinh con đẻ cái, khi hết thời gian ở rể mới được làm lễ cưới để đưa cô dâu về nhà chồng. Thời gian ở rể là thời gian thử thách chàng rể phải cố gắng thể hiện mình trên phương diện đối nhân xử thế, trong lao động sản xuất để đến khi cưới cha mẹ chia của cho.

Trước khi tổ chức cưới, người Cống còn làm lễ đặt hỏi. Đây là lễ xin chọn một ngày tốt để cưới cho đôi vợ chồng đã hết thời gian ở rể. Việc chọn ngày để làm lễ đặt hỏi cũng thường vào những ngày tốt và những ngày tháng giáp Tết (do việc đi ở rể cũng vào những ngày tháng giáp tết và ở rể thường tròn năm). Cũng giống như nhiều tộc người khác, mùa cưới của người Cống thường được tổ chức vào tháng 11, 12 Âm lịch là thời điểm nông nhàn đồng thời cũng là thời điểm sửa sang nhà cửa để đón năm mới và dựng vợ gả chồng cho con cái.

Như nhiều cộng đồng dân tộc ít người vùng Tây Bắc, đám cưới người Cống đặc biệt coi trọng phần nghi lễ: Làm lý. Trước khi tiễn con gái về nhà chồng, nhà gái sẽ làm lý với những nghi thức trang trọng và thiêng liêng nhất. Ý nghĩa chính của việc làm lý ở nhà gái là “Cắt hóng” cô gái khỏi bàn thờ của gia đình nhà gái (tức là cô gái không còn thuộc bàn thờ tổ tiên, gia đình nữa). Sau khi đón con dâu về, nhà trai cũng phải làm lý “Nhập hóng” để “nhập” cô dâu vào bàn thờ gia đình, tổ tiên nhà chú rể...

Có thể nói, trong thời gian nửa đầu buổi sáng, trung tâm của đám cưới người Cống diễn ra tại nhà gái, vì toàn bộ nhà trai đã thành đoàn rước dâu đến nhà gái chờ lý và ăn cơm mừng chung vui với nhà gái. 8h sáng, căn nhà sàn của nhà gái đã chật kín người chờ làm lý. Trưởng lý, cô dâu, chú rể cùng với những người thân thiết trong gia đình nhà gái đã ngồi quây quần quanh mâm lý được chuẩn bị sẵn, với ánh mắt và tâm trạng thể hiện sự tôn nghiêm hết mực. Mọi người ngồi quanh mâm lý hầu như không nói chuyện. Không gian trong nhà khá trật tự, chỉ có tiếng nói uy linh của Trưởng lý xen lẫn tiếng nức nở không ngừng của người con gái trong ngày vu quy...

Trước khi kết hôn, chàng trai phải trải qua 3 năm ở rể và sống như vợ chồng với cô gái. Sau 3 năm ấy, nếu hai người có con trai, thì mâm lý nhà trai mang đến sẽ là một con gà. Nếu hai người sinh con gái, thì mâm lý nhà trai mang đến sẽ là 9 đôi cá suối.
 
Mọi người vui vẻ ăn cỗ cưới. Ảnh: nguồn Internet
Mọi người vui vẻ ăn cỗ cưới. Ảnh: nguồn Internet

Lễ làm lý bắt đầu khi Trưởng lý tung 2 đồng bạc trắng vào một chiếc bát đặt trên mâm lý. Hai chiếc đồng bạc xoay tít với những âm thanh sắc lẹm khi va vào nhau và va vào thành bát. Sau khi đếm tiền lý xong, Trưởng lý đọc bài khấn tổ tiên, trời đất chứng giám cho lễ kết duyên của đôi trai tài, gái sắc của bản.

Kết thúc bài khấn, Trưởng lý đưa tay vào bụng gà, lấy ra một lát nhỏ thịt, rồi nhón một phần xôi nhỏ bằng hạt gấc... pha trộn vào nhau thành một dúm đặt lên một góc trống trên mâm lý. Đây chính là nghi thức mời tổ tiên thưởng thức trước, khi về chứng giám lễ kết duyên của người con gái trong họ. Làm lý kết thúc, cô dâu, chú rể cùng nhau uống rượu cần bằng 2 ống hút có sẵn trước đó.

Khi mọi người kết thúc bữa cơm mừng cưới với những chén rượu lý cũng là lúc chuẩn bị cho lễ rước dâu. Trước khi về nhà chồng, dâu quỳ lạy bố mẹ đẻ 3 lần. Đây cũng là nghi thức cuối cùng của cô gái khi vu quy. Khoảng thời gian trầm lắng của giây phút làm lý trôi qua, không gian bỗng trở nên ồn ào náo nhiệt bất ngờ. Tiếng cười nói vang vang làm nóng cả không khí mùa đông giá lạnh nơi bản làng vùng cao Tây Bắc. Các trai làng, gái bản tuy đã nồng nàn men rượu cưới, song vẫn hướng sự tập trung về phía cầu thang nhà gái với ánh mắt và dáng điệu sẵn sàng đón chờ một lễ rước dâu sôi động nhất...

Nhà gái té rượu, nước, đồ ăn thức uống trên mâm cỗ vào đoàn rước dâu là một tập tục đã có từ xa xưa của người Cống. Tục té rượu này không những để xua đuổi những điều rủi ro trước đó mà còn mang theo điềm may mắn những ai tham gia rước dâu và cho cả đôi vợ chồng trẻ. Trước kia, người ta còn sử dụng cả bùn, đất nhão... để ném vào đoàn rước dâu. Nhưng bây giờ, vì giữ gìn vệ sinh, nên họ chỉ té rượu, nước và đồ ăn thức uống. Khi đoàn rước dâu nhà trai vừa bước chân xuống cầu thang, là lúc những cơn “mưa” rượu, nước từ trái nhà té ra. Dùng tay che chắn cho cô dâu lúc này vẫn đang nghẹn ngào khóc, mọi người nhanh chân bước xuống cầu thang trong tiếng mừng vui, phấn khích tột độ của tất cả mọi người.

Khi đoàn nhà trai về đến nhà, trước tiên cô dâu được dẫn vào bếp, dúm một ít gạo lên rồi lại bỏ xuống, còn chú rể cũng sẽ làm tương tự như vậy đối với muối. Việc làm này của cô dâu chú rể là thể hiện cho việc đã làm chủ được hũ gạo, âu muối tức là làm chủ gia đình.

Cô dâu chú rể uống rượu cưới. Ảnh: nguồn Internet
Cô dâu chú rể uống rượu cưới. Ảnh: nguồn Internet

Thực hiện xong nghi thức này, cô dâu được đưa đến ngồi trước giường của bố mẹ chồng - giường chính của gia đình, nằm ở phía trái ngôi nhà. Chiếc giường này cũng là nơi đặt bàn thờ của gia đình. Tại đây, trưởng lý nhà trai sẽ làm lễ “Nhập hóng” cho cô dâu. Khi ấy, cô dâu chính thức trở thành một thành viên trong gia đình nhà trai. Từ đây, cô gái sẽ không được về ngủ qua đêm ở nhà bố mẹ đẻ, tuy vẫn có thể thăm nom bình thường vào ban ngày.

Có thể nói, lễ cưới hỏi truyền thống của dân tộc Cống mang đầy những nghi thức tốt đẹp thể hiện sự quan tâm của cộng đồng đến hạnh phúc nam nữ. Sau khi kết thúc các nghi lễ cưới hỏi, đôi vợ chồng trẻ sẽ bắt đầu một cuộc sống mới. Từ nay trở đi đôi vợ chồng trẻ sẽ tự lo làm ăn và vun đắp cho hạnh phúc của mình.

Theo thegioidisan.vn

Có thể bạn quan tâm

Lễ ăn mừng đầu lúa mới của đồng bào Raglai

Lễ ăn mừng đầu lúa mới của đồng bào Raglai

Đồng bào Raglai sở hữu một kho tàng tri thức dân gian đồ sộ, từ sử thi, truyện cổ, dân ca đến luật tục… Không chỉ vậy, đồng bào còn lưu giữ nhiều lễ hội dân gian đặc sắc như Lễ ăn mừng đầu lúa mới, lễ bỏ mả, các nghi lễ vòng đời… Trong đó lễ ăn mừng đầu lúa mới đã được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, khẳng định gái trị văn hóa sâu sắc và vai trò quan trọng trong đời sống, tinh thần của cộng đồng người Ragalai.

Món cà đắng lòng gà bọc lá chuối của người Jrai

Món cà đắng lòng gà bọc lá chuối của người Jrai

Ẩm thực của người Jrai ở Gia Lai luôn độc đáo với những món ăn ngon, dân dã, đậm nét truyền thống. Trong số đó, món cà đắng lòng gà bọc lá chuối nổi bật như một biểu tượng của sự sáng tạo và gắn kết với thiên nhiên.

Vui Tết rừng với đồng bào Mông Nà Hẩu

Vui Tết rừng với đồng bào Mông Nà Hẩu

Đến hẹn lại lên, cứ vào ngày cuối cùng của tháng Giêng hằng năm, đồng bào dân tộc Mông ở xã Nà Hẩu, huyện Văn Yên (Yên Bái) nô nức hội tụ tại các điểm trung tâm bản để tổ chức Lễ Cúng rừng hay còn gọi Tết rừng.

Gìn giữ món bánh bạc đầu truyền thống của người Sán Dìu

Gìn giữ món bánh bạc đầu truyền thống của người Sán Dìu

Văn hóa ẩm thực của người Sán Dìu tại Quảng Ninh sở hữu những đặc trưng riêng, thể hiện sự khéo léo, tinh tế trong chế biến, phối hợp các thực phẩm. Một trong những món ăn đặc sắc đó là bánh bạc đầu đã trở thành đặc sản nổi tiếng. Thưởng thức các món bánh thơm ngon và tìm hiểu về văn hóa độc đáo của người Sán Dìu ở vùng cao Quảng Ninh là trải nghiệm đáng nhớ.

Tái hiện lễ Khai hạ của đồng bào dân tộc Mường

Tái hiện lễ Khai hạ của đồng bào dân tộc Mường

Nằm trong khuôn khổ các hoạt động của ngày hội " Sắc xuân trên mọi miền Tổ quốc" xuân Ất Tỵ 2025, tại làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào dân tộc Mường đến từ tỉnh Hòa Bình đã tổ chức tái hiện lễ hội Khai hạ đặc sắc.

Nghi thức lễ hát múa ăn mừng dưới cây bông của đồng bào dân tộc Thái

Nghi thức lễ hát múa ăn mừng dưới cây bông của đồng bào dân tộc Thái

Nằm trong khuôn khổ các hoạt động của ngày hội “Sắc xuân trên mọi miền Tổ quốc” xuân Ất Tỵ 2025, tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) bà con đồng bào dân tộc Thái đến từ huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức tái hiện trích đoạn nghi thức lễ hát múa ăn mừng dưới cây bông (Kin Chiêng Boọc Mạy) đặc sắc.

Chiêm ngưỡng vẻ đẹp trang phục truyền thống của người Dao Thanh Y

Chiêm ngưỡng vẻ đẹp trang phục truyền thống của người Dao Thanh Y

Người Dao Thanh Y sinh sống trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nhiều năm qua vẫn luôn giữ được bản sắc văn hóa riêng thông qua phong tục, tập quán hay nếp sinh hoạt hằng ngày và đặc sắc trong đó có bộ trang phục truyền thống của phụ nữ Dao Thanh Y là một di sản văn hóa độc đáo, mang đậm nét đặc trưng.

Lễ cúng rừng của người Mông nơi đại ngàn xanh Nà Hẩu

Lễ cúng rừng của người Mông nơi đại ngàn xanh Nà Hẩu

Đối với đồng bào dân tộc Mông ở xã Nà Hẩu (huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái), lễ cúng rừng hay còn gọi Tết rừng có từ khi tổ tiên di cư đến nơi đây lập làng, lập bản và trở thành bản sắc văn hóa, tín ngưỡng dân gian độc đáo riêng có.

Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa

Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa

Ngày 5/2 (tức mùng 8 Tết Ất Tỵ), tại xã Phong Phú, huyện Tân Lạc (Hòa Bình) diễn ra Lễ hội Khai hạ dân tộc Mường năm 2025. Đây là lễ hội dân gian truyền thống lớn nhất của dân tộc Mường, đồng thời trở thành nét sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng không thể thiếu trong dịp Tết đến, Xuân về của người Mường ở Hòa Bình. Lễ hội thu hút hàng nghìn người dân, du khách trong và ngoài tỉnh đến tham gia.

Gìn giữ nghề dệt thổ cẩm trang phục dân tộc Thái ở Điện Biên

Gìn giữ nghề dệt thổ cẩm trang phục dân tộc Thái ở Điện Biên

Cộng đồng người Thái là một trong ba dân tộc chiếm phần lớn dân số của tỉnh Điện Biên. Nghề dệt thổ cẩm trang phục truyền thống của dân tộc Thái dù đã từng đối mặt với nguy cơ mai một nhưng hiện vẫn được gìn giữ. Những nghệ nhân lớn tuổi vẫn bền bỉ truyền nghề cho thế hệ trẻ từng họa tiết, hoa văn đặc trưng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Hội làng mừng Gươl mới của đồng bào Cơ-tu thôn Aró. Ảnh: Khánh Nguyên

Người Cơ-tu vui hội mừng Gươl mới

Với đồng bào Cơ-tu ở thôn Aró, xã Lăng, huyện Tây Giang (Quảng Nam), Gươl là không gian sinh hoạt chung, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh. Để chào mừng công trình trọng đại này, đồng bào Cơ-tu thường tổ chức lễ mừng Gươl mới, góp phần bảo tồn nét đẹp văn hóa cộng đồng.

Lễ sum họp của người M’nông

Lễ sum họp của người M’nông

Cứ từ 3 đến 5 năm, trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 3, khi mùa màng thu hoạch xong, đồng bào M’nông ở tỉnh Đắk Nông lại tổ chức lễ sum họp nhằm cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Gìn giữ nghệ thuật thêu, dệt thổ cẩm của người Dao Thanh Y

Gìn giữ nghệ thuật thêu, dệt thổ cẩm của người Dao Thanh Y

Nếu như người đàn ông đóng vai trụ cột trong đời sống của người Dao Thanh Y thì phụ nữ ở dân tộc này lại nắm giữ những giá trị không thể thay thế, là người nuôi dưỡng phát huy nguồn văn hóa truyền thống trong mỗi gia đình và rộng hơn là bản sắc của cả một dân tộc. Một trong những nét văn hóa của phụ nữ Dao Thanh Y ở thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh còn giữ lại được là nghệ thuật thêu, dệt thổ cẩm, thể hiện sự khéo léo, tài tình của phụ nữ.

Đồng bào Mông ở Sơn La rộn ràng đón Tết cổ truyền

Đồng bào Mông ở Sơn La rộn ràng đón Tết cổ truyền

Ở Sơn La, đồng bào Mông thường đón Tết cổ truyền (Nào Pê Chầu) sớm hơn Tết Nguyên đán 1 tháng, bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên để giữ gìn nét văn hóa truyền thống, giáo dục cho con cháu luôn hướng về cội nguồn.

Độc đáo canh gà rượu Bâu bổ dưỡng của người Dao Thanh Y

Độc đáo canh gà rượu Bâu bổ dưỡng của người Dao Thanh Y

Tại chân núi Yên Tử, cộng đồng người Dao Thanh Y tuy không quá đông nhưng bà con nơi đây vẫn duy trì sinh hoạt và phát huy được nét đẹp văn hóa đậm đà bản sắc, trở thành một phần không thể thiếu khi nói về những giá trị văn hóa phi vật thể của thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.

Giữ lửa nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Mông trên đỉnh Hang Kia – Pà Cò

Giữ lửa nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Mông trên đỉnh Hang Kia – Pà Cò

Nằm trong vùng núi cao của huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, xã Hang Kia và Pà Cò là nơi sinh sống của cộng đồng dân tộc Mông, một dân tộc có nền văn hóa lâu đời với những giá trị truyền thống đặc sắc. Trong đó, nghề dệt, thêu thổ cẩm là một phần quan trọng trong đời sống của người dân nơi đây.

Nét đẹp văn hóa trong trang phục của phụ nữ Hà Nhì

Nét đẹp văn hóa trong trang phục của phụ nữ Hà Nhì

Với sự tài hoa trong nghệ thuật thêu, can, ghép vải trên trang phục, người Hà Nhì đã tạo ra nét độc đáo riêng cho trang phục truyền thống của dân tộc mình, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú trong bản sắc văn hóa các dân tộc tỉnh Điện Biên.

Kinh lá buông - “báu vật” của đồng bào Khmer An Giang

Kinh lá buông - “báu vật” của đồng bào Khmer An Giang

Là một trong Tam bảo của Phật giáo Nam Tông Khmer, kinh lá buông được xem như “báu vật” có giá trị đặc biệt trong đời sống tâm linh của đồng bào Khmer vùng Bảy núi An Giang. Kinh lá buông không chỉ là tài liệu ghi chép về các nghi lễ tôn giáo mà còn là kho tàng tri thức về văn học, y học, lịch pháp cũng như những câu chuyện dân gian phản ánh cuộc sống của cộng đồng.

Đặc sắc trang phục truyền thống của phụ nữ Pà Thẻn

Đặc sắc trang phục truyền thống của phụ nữ Pà Thẻn

Là dân tộc sống lâu đời trên vùng núi cao, người Pà Thẻn vẫn lưu giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống, đặc biệt là trang phục của phụ nữ với màu sắc, họa tiết hoa văn đặc trưng, tạo nên nét độc đáo riêng.

Đặc sắc lễ mừng cơm mới của đồng bào Mường ở Miền Đồi

Đặc sắc lễ mừng cơm mới của đồng bào Mường ở Miền Đồi

Lễ mừng cơm mới là một trong những nghi lễ truyền thống quan trọng và mang ý nghĩa văn hóa sâu sắc của đồng bào dân tộc Mường. Đây là dịp để tạ ơn thần linh, tổ tiên đã ban cho một vụ mùa bội thu, đồng thời cũng là cơ hội để cộng đồng gắn kết, gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc.

Ẩm thực của người Ê-đê

Ẩm thực của người Ê-đê

Người Ê-đê trên Cao nguyên Đắk Lắk không chỉ có truyền thống văn hóa lâu đời mà còn có nền ẩm thực đặc sắc với những món ăn độc đáo, là sự hòa quyện của hương vị núi rừng. Ẩm thực của người Ê-đê là sự hòa trộn tinh tế của các loại thực phẩm sẵn có của địa phương, các loại thảo mộc, gia vị cùng phong cách nấu nướng và chế biến đặc biệt.