Lễ hội Then Kin Pang năm 2023 tại xã Khổng Lào, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu diễn ra từ 28-29/4 (tức ngày 9-10/3 âm lịch) với nhiều hoạt động mang đậm bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc Thái trắng, thu hút hàng nghìn người dân và du khách đến tham quan, trải nghiệm. Đặc biệt, lễ hội năm nay có sự tham gia, giao lưu của Đoàn công tác Hội Nghiên cứu học thuật dân tộc Thái huyện Kim Bình (tỉnh Vân Nam, Trung Quốc).
Khai mạc lễ hội, Phó Chủ tịch UBND huyện Phong Thổ, Trưởng Ban tổ chức Lễ hội Mai Thị Hồng Sim nhấn mạnh: Lễ hội Then Kin Pang là dịp để đồng bào dân tộc Thái huyện Phong Thổ tưởng nhớ và cảm tạ công ơn của Then đã tạo phúc cho dân, ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, bản làng yên vui, no ấm. Thông qua nhiều hoạt động trong lễ hội nhằm tôn vinh truyền thống văn hóa, thành tựu, đóng góp của cộng đồng dân tộc Thái trong công cuộc gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đồng thời, lễ hội là dịp để nhân dân các dân tộc cùng hội tụ giao lưu văn hóa, tăng thêm sự hiểu biết; kết hợp giữa văn hóa truyền thống với văn hóa đương đại; góp phần xây dựng đời sống văn hóa tinh thần vui tươi, lành mạnh, từ đó xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Lễ hội là dịp để huyện Phong Thổ giới thiệu, quảng bá các giá trị văn hóa độc đáo, đặc sắc của dân tộc Thái huyện Phong Thổ với bạn bè trong nước và quốc tế. Qua đó, cơ quan chức năng đẩy mạnh phát triển du lịch huyện Phong Thổ theo Nghị quyết của Huyện ủy về phát triển du lịch huyện giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 và Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đưa huyện Phong Thổ ra khỏi huyện nghèo vào năm 2025.
Lễ hội năm nay gồm 2 phần: lễ và hội. Trong đó phần lễ được Ban tổ chức thực hiện tại nhà Then với các nghi thức cúng, dâng hương, bày tỏ lòng biết ơn đối với trời đất, thần linh; cầu mong các vị thần ban phước lành, che chở, là chỗ dựa tinh thần cho nhân dân trong vùng vượt qua khó khăn, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Phần hội diễn ra nhiều tiết mục thi đặc sắc và hấp dẫn với sự tham gia của các vận động viên, nghệ nhân, đội văn nghệ của 6 xã có đồng bào người Thái sinh sống gồm: Thị trấn Phong Thổ, Mường So, Khổng Lào, Nậm Xe, Bản Lang, Hoang Thèn.
Ở phần thi văn nghệ “Duyên dáng Mường Then”, các đội thi mang đến những tiết mục hát, múa ca ngợi Đảng, Bác Hồ, tình yêu quê hương đất nước, cuộc sống mới trên mảnh đất Lai Châu nói chung và huyện Phong Thổ nói riêng; trình diễn trang phục dân tộc, nhạc cụ truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa của người dân tộc Thái. Phần thi ẩm thực là dịp để các xã trổ tài nấu các món ăn đặc trưng dân tộc. Từ những nguyên liệu sẵn có tại địa phương, mỗi đội thi chế biến thành nhiều món ăn hấp dẫn. Đội ít nhất là hơn 20 món ăn, đội nhiều nhất là 55 món ăn. Trong đó có các món: thịt nướng, cá nướng, cá bống vùi tro, xôi ngũ sắc, các món rau rừng, canh bon, sâu đá, sâu đao, chim sẻ…thu hút sự quan tâm của nhiều du khách đến thưởng thức.
Điểm mới của lễ hội năm nay có thêm phần thi “Khéo tay hay nghề” gồm thi kéo sợi và đan “hap pa giảng” (giỏ đựng cá sấy), qua đó thể hiện sự khéo léo của các nghệ nhân khi làm ra các sản phẩm mang đậm bản sắc dân tộc Thái.
Bên cạnh đó, khi về dự lễ hội, nhân dân trong tỉnh Lai Châu và du khách thập phương được chứng kiến các phần thi sôi động của các đội thi và tham gia nhiều trò chơi dân gian như kéo co, tung còn, én cáy, bắn nỏ, đi cà kheo, bắt cá...
Đặc biệt, phần thi không thể thiếu của Lễ hội Then Kin Pang hàng năm đó là té nước. Đây là hoạt động nhộn nhịp để các đại biểu, nhân dân, du khách cùng hòa mình trong không gian mát lành của dòng suối, để vui té nước cầu may mắn, bình an cho bản thân, gia đình và bản làng.
Nhiều du khách trầm trồ và thấy thú vị với các phần thi và xin chụp ảnh chung với những cô gái Thái trong trang phục truyền thống. Gia đình chị Vũ Thị Bích Hà đến từ thủ đô Hà Nội chia sẻ: Năm nay, thời gian nghỉ lễ trùng nhau nên được nghỉ dài ngày, gia đình chị chọn Lai Châu, Lào Cai để đi du lịch. Được tận mắt nhìn thấy, trải nghiệm những phần thi độc đáo, đặc sắc của đồng bào dân tộc Thái ở Phong Thổ, chị thấy rất thích thú, nhất là khi cùng đồng bào té nước, hòa vào với thiên nhiên, con người nơi đây.
Còn anh Phan Nhật Anh, du khách từ Hải Dương chia sẻ, anh ấn tượng nhất là nghi thức cúng Then và té nước cùng người dân. Hoạt động này là dịp để trai bản, gái mường gặp gỡ và thể hiện bản thân qua những câu hát, điệu múa và trò chơi dân gian.
Có thể thấy, Lễ hội Then Kin Pang, huyện Phong Thổ đang ngày càng lan tỏa tới du khách gần xa bằng những giá trị văn hóa, tinh thần độc đáo của đồng bào Thái trắng ở khu vực Mường So, Khổng Lào. Lễ hội cũng góp phần tích cực bảo tồn, phát huy tốt các giá trị văn hóa, từng bước đưa lễ hội trở thành điểm đến du lịch đặc sắc, hấp dẫn du khách khi đến Lai Châu.
Việt Hoàng – Đinh Thùy
Tên tự gọi: Tay hoặc Thay
Tên gọi khác: Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tày Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ.
Nhóm địa phương: Ngành Ðen (Tay Ðăm), Ngành trắng (Tay Ðón hoặc Khao).
Dân số: 1.550.423 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Lịch sử: Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.
Hoạt động sản xuất: Người Thái sớm đi vào nghề trồng lúa nước trong hệ thống thuỷ lợi thích hợp được đúc kế như một thành ngữ - "mương, phai, lái, lịn" (khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật chướng ngại, đặt máng) trên các cánh đồng thung lũng. Họ làm ruộng cấy một vụ lúa nếp, nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm và đặc biệt bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải.
Cót xát rất phổ biến ở vùng người Thái, dùng để trải trên sàn trước khi xếp chiếu phục tay và các tấm đệm ngủ lên trên. Cót được đan bằng cây mạy loi, một loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao.
Ăn: Ngày nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính, gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chõ, đặt lên bếp, đồ thành xôi. Trên mâm ăn không thể thiếu được món ớt giã hoà muối, tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành... có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng... gọi chung là chéo. Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại thì buộc phải có nước nhúng lấy từ lòng non (nặm pịa). Thịt cá ăn tươi thì làm món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm; ăn chín, thích hợp nhất phải kể đến các món chế biến từ cách nướng, lùi, đồ, sấy, sau đó mới đến canh, xào, rang, luộc...
Họ ưa thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, bùi, ít dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng... hay uống rượu cần, cất rượu. Người Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và chạm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ. Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.
Mặc: Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn, đủ màu sắc, đính khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu... chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống; thắt eo bằng dải lụa màu xanh lá cây; đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Ngày lễ có thể vận thêm áo dài đen, xẻ nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết eo, vai phồng, đính vải trang trí ở nách, và đối vai ở phía trước như của Thái Trắng. Nữ Thái Ðen đội khăn piêu nổi tiếng trong các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ. Nam người Thái mặc quần cắt để thắt lưng; áo cánh xẻ ngực có túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái; cài khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến là đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong có một lần áo trắng, tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo kiểu mỏ rìu. Khi vào lễ cuốn dải khăn dài một sải tay.
Ở: Ở nhà sàn, dáng vẻ khác nhau: nhà mái tròn khum hình mai rùa, hai đầu mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút; nhà 4 mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can; nhà sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh; nhà mái thấp, hẹp lòng, gần giống nhà người Mường.
Phương tiện vận chuyển: Gánh là phổ biến, ngoài ra gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ nay. ở dọc các con sông lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.
Quan hệ xã hội: Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường hay theo chế độ phìa tạo Tông tộc Thái gọi là Ðằm. Mỗi người có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu: Ải Noong (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể). (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể).
Cưới xin: Trước kia người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có 2 bước cơ bản:
Cưới lên (đong khửn) - đưa rể đến cư trú nhà vợ - là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể. Người Thái Ðen có tục búi tóc ngược lên đỉnh đầu cho người vợ ngay sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12 năm.
Cưới xuống (đong lông) đưa gia đình trở về với họ cha.
Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ theo tư thế ngồi, nhau bỏ vào ống tre đem treo trên cành cây ở rừng. Sản phụ được sưởi lửa, ăn cơm lam và kiêng khem một tháng; ống lam bó đem treo trên cành cây. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lung Ta đến đặt tên chi cháu.
Ma chay: Lễ tang có 2 bước cơ bản:
Pông: Phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng), thiếu (Thái Ðen).
Xống: gọi ma trở về ngụ ở gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.
Nhà mới: Dẫn chủ nhân lên nhận nhà Lung Ta châm lửa đốt củi ở bếp mới. Người ta thực hiện tại nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi điều ác thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi.
Lễ tết: Cúng tổ tiên ở người Thái Ðen vào tháng 7, 8 âm lịch. Người Thái Trắng ăn tết theo âm lịch. Bản Mường có cúng thần đất, núi, nước và linh hồn người làm trụ cột.
Lịch: Theo hệ can chi như âm lịch. Lịch của người Thái Ðen chênh với âm lịch 6 tháng.
Học: Người Thái có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu. Người Thái có nhiều tác phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học.
Văn nghệ: Người Thái có các điệu xoè, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên phong phú.
Chơi: Trò chơi của người Thái phổ biến là ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa xoè, chơi quay và quả mák lẹ. Nhiều trò chơi cho trẻ em.
Mỗi nhà người Thái thường có hai bếp, một bếp để tiếp khách, sưởi ấm, một bếp khác để nấu cơm. Chõ xôi (ninh đồng, chõ gỗ) được đặt trên 3 ông đầu rau bằng đá. Phía trên bếp có giàn để các thức cần sấy khô. Người Thái thường dùng ghế mây tròn để ngồi quanh bếp.
Theo cema.gov.vn