Sản phẩm rượu cần của dân tộc S’Tiêng ở Bình Phước đang từng bước xây dựng sự khác biệt về hương vị, độ đậm đà, chất lượng riêng có của người dân tộc thiểu số bản địa. Đây là một sản vật đặc trưng, góp phần vào sự phong phú đa dạng của văn hóa ẩm thực Việt Nam nói chung và Bình Phước nói riêng. Với giá trị tiêu biểu, đặc biệt này, Kỹ thuật chế biến rượu cần người S’Tiêng Bình Phước vừa được Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia.
Phát huy giá trị bản sắc dân tộc
Kỹ thuật chế biến rượu cần của người S’Tiêng Bình Phước thuộc loại hình tri thức dân gian, nghề truyền thống được hình thành lâu đời qua nhiều thế hệ, tích lũy qua thời gian. Tuy nhiên, hiện nay số hộ gia đình còn chế biến rượu cần còn rất ít. Gia đình ông Điểu Đon (70 tuổi, ở thôn 3, xã Đắk Ơ, huyện Bù Gia Mập) là một trong những hộ vẫn gìn giữ và phát huy truyền thống chế biến rượu cần của dân tộc. Theo ông Điểu Đon, nấu rượu cần theo công thức truyền miệng, làm thủ công truyền thống thể hiện qua cách nhận diện và khai thác phù hợp các nguyên liệu từ tự nhiên như: lá cây, vỏ cây rừng... Chủ nhân nấu biết cách phối trộn độc đáo giữa các men lá với lúa, gạo, từ đó tạo ra sản phẩm rượu cần mang lại sự khác biệt về hương vị, độ đậm đà, chất lượng trong rượu cần.
“Rượu cần theo tiếng S’Tiêng gọi là Đ’rắp S’lung hay Rơ nơm Đ’Rắp. Rượu cần thể hiện văn hóa ứng xử của cư dân với cộng đồng, thể hiện mối quan hệ gắn kết cộng đồng về văn hóa, đời sống tâm linh, tín ngưỡng. Nó là thức uống không thể thiếu trong các dịp lễ hội quan trọng của cộng đồng, hay các sự kiện trọng đại mang tính bước ngoặt của một đời người trong buôn làng. Trong các dịp lễ, Tết, cưới hỏi… bình rượu cần vẫn được sử dụng. Hiện nay, tôi đã truyền dạy cho các con và biết nấu rượu cần rồi”, ông Điểu Đon chia sẻ.
Sau thế hệ 5X, thế hệ 8X đang từ bước phát huy giá trị bản sắc rượu cần của dân tộc. Tiêu biểu như chị Điểu Thị Xia (34 tuổi, ở sóc Bom Bo, xã Bình Minh, huyện Bù Đăng) đã thành lập Tổ hợp tác chế biến rượu cần S’Tiêng sóc Bom Bo. Chị Điểu Thị Xia cho biết: “Tôi và nhiều chị em trong sóc đã được thế hiện trước truyền dạy nấu rượu cần. Từ ý tưởng mở rộng chế biến rượu cần với số lượng lớn nhằm tạo cơ hội cho phụ nữ đồng bào dân tộc S’Tiêng tại sóc Bom Bo có nguồn thu, đồng thời mang văn hóa truyền thống nghề nấu rượu cần của người S’Tiêng được đông đảo người tiêu dùng biết đến”.
Nhiều gia đình ở Bom Bo đã nhận thức việc gìn giữ phát huy truyền thống rượu cần. Đến nay đã có 10 thành viên tham gia tổ hợp tác sản xuất rượu cần. Những thành viên hầu hết là phụ nữ có chung sở thích và bảo tồn giá trị bản sắc dân tộc. Chế biến rượu cần đã mang lại nguồn thu nhập thêm cho chị em trong tổ hợp tác.
“Việc làm rượu cần của chúng tôi đang ở mức tự phát nên gặp không ít khó khăn cho tổ hợp tác. Để phát huy giá trị truyền thống về rượu cần, rất mong được chính quyền địa phương quan tâm hơn, tạo nguồn vốn để tổ hợp tác vay vốn nhằm phát triển cơ sở rượu cần có chất lượng hơn nữa”, chị Điểu Thị Xia chia sẻ.
Chuẩn bị đón Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022, tổ hợp tác rượu cần Bom Bo đã chế biến hàng trăm bình. Đây còn là dịp để rượu cần S’Tiêng được đông đảo người tiêu dùng biết đến và nhiều dân tộc anh em biết văn hóa nấu rượu cần của người S’Tiêng.
Xây dựng thương hiệu rượu cần
Với giá trị tiêu biểu, đặc biệt, Kỹ thuật chế biến rượu cần người S’Tiêng Bình Phước được Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 4597/QĐ-BĐ-BVHTTDL ngày 20/12/2019.
Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bình Phước Phạm Hữu Hiến cho biết, rượu cần chứa đựng giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của cộng đồng dân tộc S’Tiêng Bình Phước. Để bảo tồn di sản này tốt hơn, trong thời gian tới, đòi hỏi sự chung tay góp sức của nhiều cơ quan, ban ngành, đặc biệt là những chủ nhân của di sản. Đồng thời, cần có những chính sách bảo tồn phù hợp, đồng thời phát huy phát triển phổ biến trong cộng đồng làm sao cho nhiều người biết đến di sản không chỉ là sản phẩm văn hóa mà còn là sản phẩm tiêu dùng.
Ông Phạm Hữu Hiến cho rằng, muốn bảo tồn hiệu quả di sản, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như nguồn lực tài chính, tuyên truyền, xây dựng các giải pháp căn cơ. Hiện nay, Bình Phước có nhiều nơi nấu rượu cần. Mỗi nơi trên cơ sở tay nghề và tri thức cộng đồng họ tạo ra một số hương vị rượu cần rất đặc trưng. Điển hình một số hộ nấu ở huyện Bù Gia Mập, Hớn Quản, Bù Đăng đã phát triển thành sản phẩm thương mại. Để xây dựng thương hiệu rượu cần S’Tiêng Bình Phước cần có giải pháp phù hợp. Ngành văn hóa đã đưa rượu cần Bình Phước đi quảng bá nhiều nơi.
Theo Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Phước Đỗ Minh Trung, Kỹ thuật chế biến rượu cần của người S’Tiêng Bình Phước được đưa vào Danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia không chỉ là sự tôn vinh và khẳng định những giá trị lịch sử - văn hóa, khoa học của loại hình tri thức dân gian, nghề truyền thống mà còn là sự ghi nhận những nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và đặc biệt đồng bào S’Tiêng các huyện, thị xã nơi có di sản tồn tại. Đây cũng là việc làm thiết thực đối với một di sản của cộng đồng người S’Tiêng trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
"Bảo tàng tỉnh tiếp tục phối hợp với các cơ quan chuyên môn, thực hiện tốt công tác phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể đã được công nhận, trong đó có di sản kỹ thuật chế biến rượu cần của người S’Tiêng Bình Phước. Thực hiện nghiêm các quy định của Luật Di sản văn hóa và các quy định có liên quan về bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa”, ông Đỗ Minh Trung cho hay.
Ngoài ra, công tác truyền dạy các tri thức, quy trình, kỹ thuật chế biến rượu cần cho các thế hệ trẻ tại địa phương là việc làm cần thiết. Địa phương cần xây dựng phương án bảo tồn và phát huy giá trị Kỹ thuật chế biến rượu cần của người S’Tiêng nói riêng và Di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Bình Phước nói chung.
Các huyện, thị xã, thành phố nơi có rượu cần cần duy trì có chương trình, giải pháp phù hợp để bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa phi vật thể Kỹ thuật chế biến rượu cần, góp phần xây dựng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đặc biệt, các già làng cần truyền dạy cho các thế hệ, duy trì bảo tồn các giá trị di sản văn hóa phi vật thể Kỹ thuật chế biến rượu cần của đồng bào dân tộc mình.
Việc trao quyết định và giấy chứng nhận Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia cho cộng đồng người S’Tiêng các huyện Lộc Ninh, Bù Đăng, Bù Gia Mập, Hớn Quản, Phước Long, Phú Riềng sẽ tạo động lực giúp cộng đồng S’Tiêng phát huy, gìn giữ nghề rượu cần đặc trưng riêng cũng như xây dựng thương hiệu mang lại sinh kế thêm trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
K GỬIH
Tên gọi khác: Xa Ðiêng hay Xa Chiêng.
Nhóm địa phương: Bù Lơ, Bù Ðek (Bù Ðêh), Bù Biêk.
Dân số: 85.436 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á) tương đối gần gũi với tiếng Mạ, Mnông, Chơ Ro. Chữ viết hình thành từ trước năm 1975, theo chữ cái La-tinh.
Lịch sử: Người Xtiêng sinh tụ lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên và miền đông Nam bộ.
Hoạt động sản xuất: Nguồn lương thực chính là lúa gạo, khoảng 80% lúa gạo do rẫy cung cấp. Nhóm Bù Lơ ở cao, sâu hơn hoàn toàn làm rẫy. Nhóm Bù Ðeh (Bù Ðêk) ở vùng thấp làm ruộng nước từ khoảng 100 năm, như cách thức canh tác của người Việt sở tại. Lúa rẫy có các giống khác nhau, được trồng theo lối "phát-đốt-chọc-trỉa", kết quả mùa màng phụ thuộc lớn vào thiên nhiên và việc bảo về trước sự phá phách của chim muông. Công cụ làm rẫy chủ yếu gồm rìu và dao xà gạc để khai phá rừng, sau khi đốt thì dùng cây cào tre có 5 răng để dọn rồi đốt lại, khi trỉa dùng gậy nhọn (mỗi tay cầm một chiếc) để chọc lỗ, đồng thời gieo hạt giống theo, làm cỏ bằng loại cuốc con (về sau thay thế bằng cái xà - bát người Việt sử dụng), dùng tay tuốt lúa. Hái lượm, săn bắt và kiếm cá đưa lại nguồn lợi quan trọng thiết thực. Gia súc phổ biến gồm: trâu, bò, lợn, chó, một số hộ nuôi voi; gia cầm chủ yếu là gà. Có nghề dệt vải và đan lát. Việc mua bán thường dùng vật đổi vật (nay dùng tiền) có quan hệ hàng hoá với người Việt, Khơme, Mnông, Mạ và cả với bên Campuchia.
Ăn: Người Xtiêng ăn cơm tẻ, cơm nếp. Thực phẩm thường ngày của họ chủ yếu là những thứ kiếm được trong rừng và sông suối (nay có mua ở chợ hay của thương nhân). Thức uống truyền thống nước lã, rượu cần. Ðồ đựng cơm canh, nước đều là vỏ bầu chế tác có hình dạng thích hợp. Họ hút thuốc lá bằng tẩu (nay ít thấy).
Ở: Người Xtiêng phân bố tập trung tại tỉnh Bình Phước, một số ở Tây Ninh và Ðồng Nai. Vùng cao ở nhà trệt, mái trùm gần xuống mặt đất và có nơi uốn tròn ở hai đầu hồi và ở một mặt bên. Vùng thấp thường làm nhà sàn khá khang trang, vách dựng nghiêng phía trên ra ngoài. Theo nếp xưa, mỗi làng chỉ gồm một vài ngôi nhà dài, nay hình thức nhà ngắn của từng hộ đang phát triển.
Mặc: Thông thường, đàn ông đóng khố, ở trần, đàn bà mặc áo, quấn váy. Trước kia, phụ nữ nghèo ở nhiều nơi cũng dùng khố. Họ ưa đeo nhiều trang sức, thường dùng các loại vòng kim loại và chuỗi cườm, thậm chí một cánh tay đeo tới trên 20 chiếc vòng nhôm nay bạc, có cả loại vòng ống quấn từ sợi dây đồng dài ôm quanh ống chân, ống tay. Loại hoa tai lớn bằng ngà voi được ưa chuộng. Nay nam giới mặc như người Việt, nữ hay dùng áo cánh, sơ mi, ở vùng gần người Khơ Me cũng thường gặp phụ nữ Xtiêng quấn váy Khơ Me.
Phương tiện vận chuyển: Các loại gùi rất thông dụng, cách gùi như ở các tộc Thượng khác. Nhóm gần người Việt và Khơ Me, các loại xe gỗ 2 bánh dùng đôi bò kéo từ lâu đã trở thành một phương tiện vận chuyển phổ biến.
Quan hệ xã hội: Mỗi cặp vợ chồng và con cái là một "bếp" (nak). Nhiều bếp hợp thành một nhà (yau). Mỗi làng xưa gồm một vài nhà, càng về sau số nhà càng tăng do việc tách hộ ở riêng. Mỗi người không chỉ thuộc về một "bếp", một nhà, một làng, mà còn là thành viên của một dòng họ nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng khác nữa. Về tổ chức xã hội truyền thống, làng là đơn vị bao trùm và nổi bật: trong tự bảo quản ở thì ông "già làng" và các bô lão có uy tín cao khác đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Xưa kia, ngoài một số ít người giàu có và đa số thuộc lớp nghèo, xã hội Xtiêng đã có những "nô lệ gia đình" do phải ở đợ, hoặc bị mua về...
Cưới xin: Thông thường nếu nhà trai có đủ của cải sính lễ, cô dâu về ở đằng chồng, nhưng thực tế phần đông phải ở rể do chưa có đủ đồ dẫn cưới theo yêu cầu của nhà gái (ché quý, chiêng cồng, trâu...); riêng ở vùng Bình Long, chàng rể luôn phải về ở nhà vợ. Tập tục hôn nhân giữa các nơi, các nhóm có những điểm khác nhau, chẳng hạn: Nhóm Bù Ðek cho phép con trai cô với con gái cậu cũng như con gái cậu với con gái cô lấy nhau, nhưng ở nhóm Bù Lơ chỉ con trai cô được lấy con gái cậu với điều kiện cậu là anh của cô, cũng chỉ được chấp nhận một lần trong mỗi gia đình.
Sinh đẻ: Phụ nữ kiêng cữ cẩn thận ngay từ thời kỳ mang thai. Việc sinh nở xưa kia, phụ nữ tự xoay xở ngoài rừng một mình. Nay nhiều người ở vùng có tập quán dựng kho thóc trong nhà vẫn ra đẻ ở ngôi nhà nhỏ dựng gần bên nhà ở, bởi họ cho rằng nếu đẻ ở nhà sẽ xúc phạm đến "thần lúa", đẻ xong sẽ phải cúng một con lợn cho "thần lúa".
Trong ngày lễ mừng lúa mới, người Xtiêng thường tổ chức đâm trâu. Khi giết một trâu, họ chỉ dựng đoạn thây cây gạo làm cột. Nếu đâm nhiều trâu, lần đầu gia chủ làm loại cột đơn giản gâng srung, những lần sau họ dựng cột gâng rai với nhiều hoa văn trang trí. Ðây là phần ngọn của cây cột đâm trâu gâng rai.
Ma chay: Quan tài gỗ độc mộc đẽo từ cây rừng. Nếu chết bình thường thì họ chôn trong bãi mộ của làng. Trong quan tài, cùng với tử thi, có bỏ một ít gạo, thuốc lá... Những ché, nồi, dụng cụ... "chia" cho người chết đều để trên và quanh mộ. Người Xtiêng không có tục thăm viếng mồ mả. Có người mới chết, cả làng không gõ cồng chiêng và vui nhộn trong khoảng 10 ngày. Những trường hợp chết bất bình thường phải cúng quải tốn kém hơn, kiêng cữ nhiều hơn, lễ thức làm ngoài khu gia cư của làng và không được chôn vào bãi mộ của làng.
Thờ cúng: Người ta tin con người, con vật, cây cối cũng như muôn vật đều có siêu nhiên, tựa như "hồn". "Thần linh" cũng có rất nhiều: thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa... Thần lúa được hình dung là người phụ nữ trẻ và đẹp. Trong các lễ cúng, các vị thần hoặc các siêu nhiên nói chung được nhắc đến để cầu xin, hay tạ ơn, hay thông báo điều gì đó. Vật hiến tế là rượu, gà, lợn, trâu, bò, số lượng càng nhiều và con vật càng lớn chứng tỏ lễ cúng càng to, thần linh càng quyền thế, quan trọng.
Lễ tết: Có rất nhiều lễ cúng lớn nhỏ khác nhau trong đời sống của người Xtiêng. Trong đó, lễ hội đâm trâu là lớn nhất, thường được tổ chức mừng được mùa lớn (gia đình thu hoạch lúa từ 100 gùi cỡ to trở lên - loại gùi có tên Sah cach), mừng chiến thắng kẻ thù, mừng làm ăn phát đạt, mừng con cái lớn khôn... Cùng với hiến sinh trâu còn thường có cả bò, lợn. Nếu hiến sinh một trâu, cột lễ để buộc trâu làm đơn giản, nhưng từ 2 trâu trở lên thì cột lễ trang trí đẹp, làm công phu. Tết Xtiêng được gọi là "lễ cúng rơm", sau khi tuốt lúa rẫy xong, trước khi đốt rẫy vụ sau: lễ thức ngày tết có nội dung tạ ơn thần lúa sau một mùa.
Văn nghệ: Người Xtiêng rất yêu âm nhạc. Nhạc cụ quan trọng nhất, đồng thời là một trong số gia tài quý ở xã hội truyền thống, là cồng và chiêng; nhóm Bù Lơ chủ yếu dùng chiêng, mỗi bộ 6 chiếc, nhóm Bù Ðek (Bù Ðêk) chủ yếu dùng cồng, mỗi bộ 5 chiếc. Riêng trong đám ma, chỉ dùng 3 cồng hoặc 3 chiêng. Ngoài ra, còn có tù và, trống, khèn bầu, các loại đàn. Người Xtiêng cũng có kho tàng truyện cổ khá phong phú, có những điệu hát của mình. Tuy nhiên, đến nay, tương tự như nhiều nơi khác, ngay cả cồng, chiêng cũng chỉ còn rất ít so với xưa kia.
Theo cema.gov.vn